Trần Hoàng Blog

Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất

Những bài được đọc nhiều nhất trong thời gian gần đây:

►Vài Sự Thật về Cách Mạng tháng 8, 1945 – Gs Nguyễn Đình Cống

►Trong cuốn Đèn Cù, Trần Đĩnh tiết lộ: Hồ Chí Minh đã tới quan sát cuộc đấu tố đầu tiên ở Đồng Bẩm, hóa trang che bộ râu để không ai nhận ra (8-2014)

►Trần Đỉnh: ‘Lúc đầu tôi đã rất mến ông Hồ’ trước khi ông Hồ thay đổi ‘lập trường’ và ngả theo ông Lê Duẩn cùng các đàn em. (9-2014)

►Một cuốn sách rất cần tìm đọc: “Trần Đức Thảo – Những lời trăn trối” (7-2014)

►Trần Đức Thảo và Công Hàm Phạm Văn Đồng 14-9-1958 – Triết gia và Lê Duẫn (9-2014)

►Trung Quốc “thuần hóa” đứa con hoang: Sau phút bốc đồng chuyện Biển Đông, đảng CSVN nay đã tâm phục, khẩu phục, ngoan ngoãn qui thuận trở về nhà và vào khuôn phép cũ (8-2014)

►Nhìn lại 45 năm để soi rọi chính mình: “Kết quả của 45 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh- dân ta chỉ mơ sang Hàn Quốc làm…ÔSIN

►Vua Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam Độc Lập ngày 11-3-1945, chỉ định Thủ Tướng Trần Trọng Kim ra mắt chính phủ ngày 17-4-1945- Hồ Chí Minh dùng bạo lực ép TTK từ chức để tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945

thedailybeast.com/galleries/2011/10/21/the-20th-century-s-deadliest-dictators-photos.html#slide_8

►Chủ Tịch Hồ Chí Minh bị Indonesia nhắc nhở đừng hôn các thiếu nữ– chuyện đó vi phạm phong tục của người Indonesia

Kinh Tế- Tài Chánh

►Đảng CSVN và Nhà Nước giúp TQ phá kế hoạch bao vây của tổ chức Thương mại Liên Thái Bình Dương (TPP) bằng cách cướp đất của dân ở Vụ Bản để rước doanh nghiệp Tàu vào thuê đất 46 năm

►Vào năm 2014, nợ công của Việt Nam sẽ lên tới 78,6 tỷ USD, theo tuần báo The Economist (cập nhật nợ công 80 tỷ đô la , nợ của 105 doanh nghiệp quốc doanh 90 tỷ đô la  )

►Nợ xấu bất động sản sẽ làm sụp đổ các ngân hàng, bùng vở nợ xấu quốc gia và nợ của doanh nghiệp nhà nước…dẫn đến khủng hoảng chính trị 2014-2017

 » (Lão Nguyễn Xuân Phúc)

Chính Trị

►Tài liệu Mật: Bản Tuyên Bố của Chu Ân Lai 4-9-1958- TT Phạm Văn Đồng thừa nhận bằng công hàm 14-9-1958- Đường lưỡi bò là do Đài Bắc vẽ 1947, và TQ chộp lấy bản vẽ ấy và quãng bá vào năm 2005 (25-5-2014)

►Trong khi TBT đảng CSVN nói: Tình hình Biển Đông không có gì mới, thì Trung Quốc đã xây xong một hòn đảo nhân tạo ở GẠC MA, dùng làm căn cứ quân sự bảo vệ tuyến đường biển vận chuyển 3/4 tổng số hàng hóa của TQ bán ra thế giới  (26-5-2014)

►Phát ớn: Bộ trưởng Quốc phòng TQ Thường Vạn Toàn gặp Bộ trưởng Quốc phòng VN Phùng Quang Thanh (21-5-2014)

 

 (25-5-2014) Bản đồ thủy lộ hàng hải của Trung Quốc-

►“Giải phóng miền Nam”: Cho ai và vì ai? – Nhờ vậy mà ngày nay TQ có cớ đi khoan dầu ở Biển Đông

Có Ai Thích Được Giải Phóng Đâu

Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài

  …Phỏng vấn: Huỳnh Nhật Hải và Huỳnh Nhật Tấn

 

►Hoàng Sa và Trường Sa trong Hội Nghị San Francisco 1951 (Trần Gia Phụng)

Giai Đoạn 1945-1954

 ►VN trả lương 7 triệu công chức, 4,7 triệu người hưu trí, và 8,8 triệu người có công với cách mạng…so với dân số 87 triệu dân!

Giai Đoạn 1990-2014

 Bối cảnh dẫn tới Hội nghị Thành Đô. 

 

►Thiếu tướng Lê Duy Mật yêu cầu đảng CSVN tổng kết cuộc chiến 1979-1984 và công bố các văn bản của Thỏa hiệp Thành Đô  (20-7-2014)

►Đại Tá an ninh Nguyễn Đăng Quang: Phải công bố các thỏa thuận Thành Đô tháng 9/ 1990 cho nhân dân biết (3-8-2014)

►Đơn gửi các vị tuyên huấn, tuyên giáo ĐCSVN về thỏa hiệp Thành Đô 9/1990 (7-8-2014)

►Phải công khai tất cả nội dung của hội nghị Thành đô-Tại sao đảng giấu kín mà không vinh danh Hội Nghị Thành Đô 1990

  (1982-2005)

►6 Hạt Giống Đỏ: Cha truyền con nối

 2013

 »

 (Bùi Minh Quốc, 20-5-2014)

Đất đai- Bất Động Sản:

►18 tỉnh VN cho các nước ngoài thuê đất trồng rừng: Giá thuê 1 mẫu đất chỉ bằng 10 tô phở (9 đô la/ 1

Bí thư Thành ủy Quảng Ninh đề xuất cho đối tượng nước ngoài thuê đất 120 năm khi trả tiền một lần!

►Móng Cái: vùng Biên Giới phía Bắc đã lọt dần dần vào tay Trung Quốc

►Biệt khu Trung Quốc ở Đà Nẵng- Đông đô đại phố ở Bình Dương do Quân Đội Nhân Dân VN xây dựng cho Trung Quốc…Nhân ngày kỷ niệm thành lập QĐNDVN 22-12-2013

►“Biếu không” nước ngoài mỏ than tốt nhất qua hợp đồng ăn chia 1/9

►Lào cung cấp bệ phóng hoàn hảo cho tham vọng khu vực ngày một lớn của Trung Quốc? Tỉnh Hà Tĩnh đầy 

►Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân hay sở hữu toàn quan

. Nông Dân Việt Nam(1)

. Nông Dân Việt Nam (2)

Đấu tranh dân chủ- Nhân quyền

 

SÁCH – HỒI KÝ 

Mao Trạch Đông Ngàn Năm Công Tội – Đại tá Tân Tử Lăng

Giọt Nước Trong Biển Cả – Hoàng Văn Hoan – (Hồi ký cách mạng) 16 kì

Giọt nước trong biển cả – Việt Nam thư quán (Hoàng Văn Hoan – (Hồi ký cách mạng) 16 kì)

Hồi ký Trần Quang Cơ — Diễn Đàn Forum

Ðọc “Chuyện Kể năm 2000″ của Bùi Ngọc Tấn |

Đêm Giữa Ban Ngày – HỒI KÝ Vũ Thư Hiên – vietnamsaigon

►Trần Đỉnh: ‘Lúc đầu tôi đã rất mến ông Hồ’ trước khi ông Hồ thay đổi ‘lập trường’ và ngả theo ông Lê Duẩn cùng các đàn em. (9-2014)

   (72014)

 

 

 

 

.(Còn tiếp)

—————————————————————–

Chế độ của TT Ngô Đình Diệm là gia đình trị, đàn áp phật giáo?

Posted by hoangtran204  on 03/11/2013

 

Về việc Tổng Thống Diệm đàn áp Phật Giáo:

Trở lại với vấn đề đàn áp Phật Giáo, theo những ghi nhận của những người chứng có liên quan mật thiết đến chế độ, thì KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO CÁCH RIÊNG. 

Ngô Đình Diệm là vị Tổng Thống duy nhất từ 1954 đến 1975 là Ân Nhân cho đất, cho tiền để xây Chùa Xá Lợi, tu sửa các chùa chiền khác. Ngô Đình Diệm cũng là Tổng Thống duy nhất hay viếng chùa Từ Đàm và đôi lần mời những vị trụ trì của chùa đến tư dinh của ông để uống trà. (Hình minh chứng đính kèm).

Tổng Thống Diệm đã bổ nhiệm toàn bộ những người bên cạnh mình là Phật Tử: 
Đổng Lý Văn Phòng, Phó Đổng Lý, Tùy Viên, Tổng Thư Ký, Bí Thư, Chánh Văn Phòng, Tham Mưu Biệt Bộ, Giám Đốc Nghi Lễ, Giám Đốc Báo Chí. Ngoài ra, trong 4 Tướng trấn giữ 4 Quân Đoàn chiến thuật, thì chỉ có một tướng là Công Giáo: Huỳnh Văn Cao, (Vùng 4 chiến thuật, khá xa Thủ Đô.) (Theo tác giả Minh Võ: Ngô Đình Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc).

“TỒNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM có bất công gia đình trị, tôn giáo trị?

Dưới đây là những Phật Tử cộng tác với TT Diệm:
– Ông Nguyễn Ngọc Thơ, Phó Tổng Thống.
– Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng.
– Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Tổng Trấn Sài Gòn- Gia Định.
– Ông Vũ Văn Mẫu, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao.
– Ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng.
– Ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng phủ Tổng Thống, kiêm Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng.
– Ông Đoàn Văn Thêm, Phó Đổng Lý Văn Phòng.
– Ông Võ Văn Hải, Chánh Võ Phòng.
– Ông Nguyễn Thành Cung, Tổng Thư Ký.
– Ông Trần Sử, Bí Thư.
Toàn Bộ Tham Mưu của Tổng Thống đều là Phật Tử.
Bên Quốc Hội có 75 trong tổng số 123 dân biểu Quốc Hội là Phật Tử.
Trong số 18 Tổng Bộ Trưởng, chỉ có 5 người là Công Giáo.
Bên quân đội, tổng số 19 tướng lãnh có quyền hành nhất, thì đã có 16 tướng là Phật Tử. “
————————————————————————–

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM Là một người hiếu sát, lê máy chém đi toàn miền Nam?)

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM là một Tín hữu Công Giáo.
1. Trong thời gian 9 năm giữ quyền điều hành đất nước TT Diệm chưa hề ra lệnh hành quyết một tử tội nào.
2. Tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh do Toà Đại Hình Cần Thơ tuyên án tử hình, và bị hành quyết ngày 13-07-1956 (theo sử gia Cao Thế Dung đã viết trong cuốn VN 30 Năm Máu Lửa: Đấy là chủ trương của Nguyễn Ngọc Thơ và Dương Văn Minh, hai người vốn không ưa Ba Cụt và Hòa Hảo. Ông Nhị Lang, một chiến hữu sát cánh tướng Ba Cụt ở chiến khu Núi Bà cũng nói: TT Diệm không có ý định sát hại tướng Ba Cụt mà chỉ có ý định thương lượng đón ông Vinh về như trường hợp ông Trình Minh Thế).
3. Tên cán bộ Việt Cộng nằm vùng được csBV chỉ thị ám sát TT Diệm tại hội chợ kinh tế Ban Mê Thuật ngày 22-02-1957 bị bắt sau khi hắn bắn hụt TT Diệm nhiều viên đạn tiểu liên. Ai cũng tưởng tên cán bộ ấy sẽ bị tra tấn dã man rồi bị thủ tiêu âm thầm, thế nhưng sau chính biến 11-1963 tên cán bộ ấy vẫn sống phây phây và tỏ ra rất cảm phục cung cách chính quyền VNCH đối xử với y trong tù, nhất là tỏ lòng ngưỡng mộ vì lòng nhân từ bác ái cuả TT Diệm.
4. Cuộc đảo chính 11-11-1960 bị thất bại, một số do sắp đặt của Mỹ chạy ra nước ngoài. Số còn lại trong đó có nhóm Caravelle như Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Trần Văn Hương, Phan Quang Đản và Vũ Hồng Khanh cũng đều được trả tự do từ 1961 đến 1963.
5. Phạm Phú Quốc oanh tạc dinh Độc Lập 27-02-1962 bị bắn hạ và bị bắt cũng sống khoẻ và về với gia đình, sau 01-11-1963 ông trở lại không quân, và bị bắn hạ trong phi vụ Bắc Việt không rõ sống hay chết.

6.Bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh ở tiểu bang Louisiana từng là thầy thuốc riêng của cố Tổng thống Diệm. Bác sĩ Tuấn Anh cho biết ông Diệm chỉ thị cho bác sĩ Trần Kim Tuyến bảo ông mỗi tuần hai lần đến chăm nom sức khỏe cho ông Hà Thúc Ký, người lập chiến khu Ba Lòng chống ông Diệm và cũng là người âm mưu ám sát ông Diệm. Ngoài ra, ông Diệm còn mật lệnh cho ông Cao Xuân Linh, em ông Cao Xuân Vĩ (hiện sống ở Orange County, California) ngầm giúp đỡ tài chánh cho bà Hà Thúc Ký để có phương tiện cho các con ăn học. Khi ông Hà Thúc Ký ra tù, được biết nghĩa cử của ông Ngô Đình Diệm thì lấy làm cảm động vô cùng, nhưng không có cách gì để đền ơn ân nhân!

Đối xử với một người tù âm mưu ám sát mình, lập chiến khu Ba Lòng chống mình mà nhân đức như thế thì làm sao dám bảo ông Ngô Đình Diệm là Cần Lao ác ôn? Thử hỏi ở Miền Bắc một người nào dám hành động phản nghịch chống lại Hồ Chí Minh mà toàn mạng và gia đình không tan nát? Chỉ cần sơ ý phát biểu một câu “nghịch nhỉ” cũng đủ tàn mạt suốt cả một đời. Người thi ân cho cách mạng như bà Nguyễn thị Năm ở Hải Phòng, cũng bị Hồ Chí Minh giết! (nguồn)
—————–—————————————————————–

TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM với Phật Giáo.

1. Trong 9 năm TT Diệm nắm quyền điều hành đất nước có khoảng 4000 ngôi Chùa mới được xây cất.

2. Hệ thống trường Trung- Tiểu học Bồ Đề được ra đời, có 160 trường Trung- Tiểu học cả nước cũng được khởi đầu thời chính phủ Ngô Dình Diệm. (Ngược lại, khi Cộng sản chiếm được miền nam 1975, nhà nước CS đã tịch thu toàn bộ hệ thống mấy trăm trường Bồ Đề của giáo hội Phật giáo VN Thống Nhất) 

3. TT Diệm gíup đỡ và phê chuẩn thành lập “Hội Phật Giáo Thống Nhất” toàn quốc,TT Diệm lại khuyến khích,cung cấp tài chánh cho các tăng sĩ đi du học ngọai quốc.

4. Khu đất mênh mông khoảng gần giữa đường Công Lý nay là chùa Vĩnh Nghiêm được chính phủ TT Diệm cấp, Bộ tài chánh không dám quyết định. Khi trình lên TT Diệm nói: “Làm chùa thì cho ngay đi”, chỉ lấy 1 đồng tượng trưng. Khu đất Viện Hóa Đạo đường Trần Quốc Toản cũng được giúp và khởi sự thời TT Diệm.

5. Chùa Xá Lợi được xây cất năm 1958 với kinh phí 2 triệu đồng VNCH (thời đó giá 1 tô phở 2,3 đồng) số tiền được trích ra từ quỹ Xã Hội của Phủ Tổng Thống và trao cho ông Mai Thọ Truyền chủ trì xây cất với mục đích phát triển và kiện toàn tổ chức Phật Giáo.

6. TT Diệm nhận được giải thưởng dành cho người Lãnh đạo xuất sắc Á Châu (Leadership Magsaysay) 10.000 USD năm 1956, ông đã tăng lại số  tiền này cho Đức Lai- Lạt- Ma của Tây Tạng.

—————————————————————————————

TỔNG THỐNG DIỆM “bất công và độc quyền tôn giáo trị”?
đối với Công Giáo.

– Kể từ ngày Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về chấp chánh đến nay, chẳng thấy bằng chứng TT Diệm cho Công Giáo một miếng đất, một số tiền nào để xây Nhà Thờ hay dòng tu, cũng chưa thấy một tu sĩ Công Giáo nào được TT Diệm cho đi du học có học bổng đầy đủ.

– TT Diệm còn lấy lại khu vườn cao su Phú Thọ mà trước đây thực dân Pháp đã tặng địa phận Sàigòn, để làm tài sản cho quốc gia. Tổng Thống đã lập luận rằng: “Khu đất đó là đất của nước Việt Nam, chứ không phải của Pháp, họ không được phép lấy đất của minh cho bất cứ tổ chức hay cá nhân nào”.

Sự việc trên làm TGM Sàigòn rất khó chịu. Vì thế linh mục Phan văn Thăm C.N Báo.T.Tiến đã chỉ trích chính phủ trên tòa giảng trong nhà thờ Đức Bà, Sàigòn.
(khu vườn cao su Phú Thọ: nằm cạnh trường Đua ngựa Phú Thọ (gần  Bệnh Viện Trưng Vương ngày nay )
——–————————————————–
Kết luận  của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc tìm hiểu về vấn đề đàn áp tôn giáo tại Việt Nam: Theo lá thư của Thượng nghị sĩ Thomas J. Dodd, Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện Hoa Kỳ, ngày 17 tháng 2 năm 1964 gởi Chủ tịch Ủy Ban Nội Vụ Thượng Viện Hoa Kỳ:

Thưa Ngài Chủ Tịch,
Vào đầu tháng 9 năm ngoái, vào lúc cao độ của cuộc khủng hoảng Phật giáo, 16 quốc gia đệ trình bản tuyên cáo lên ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, kết án chính phủ Việt Nam đã vi phạm trầm trọng về nhân quyền. Để trả lời, chính phủ của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã mời Liên Hiệp Quốc gửi một Ủy ban đến Tìm Hiểu Sự Thật và cam kết sẽ hợp tác chặt chẽ với Ủy ban. Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận lời mời và ngày 11 tháng 10 một ủy ban đã được thành lập gồm đại diện các quốc gia Afghanistan, Brazil, Costa Rica, Dahomey, Morocco, Ceylan, và Népal.

Phúc trình của Ủy ban về Việt Nam, dù rằng được ấn hành trong nội bộ Liên Hiệp Quốc vào ngày 9 tháng 12, nhưng chỉ được phổ biến một cách hạn chế cho báo chí. Sự thật, bản phúc trình này chỉ được báo chí biết đến hơn hai tuần lễ sau khi được ấn hành do một vài bình luận gia biết được vấn đề.
Theo tôi nghĩ bản phúc trình này có những điều đáng lưu tâm và tôi đề nghị tiểu ban Nội Vụ Thượng Viện ấn hành để các Thượng nghị sĩ hiểu rõ vấn đề.

Ðây là bản phúc trình bao gồm những lời khai và tài liệu, nhưng không hề có những nhận xét hay kết luận của Ủy ban, tôi tin rằng bất cứ ai sau khi đọc cũng có thể đưa ra kết luận về lời cáo buộc “Phật Giáo đã bị đàn áp”, mà thật ra chỉ là một sự thổi phồng đầy ác ý, và tuyên truyền gian trá.

Tôi cũng lưu tâm quý vị liên hệ sự kiện này với cuộc phỏng vấn của NCWC News Agency vào ngày 20 tháng 12 với Ðại Sứ Fernando Volio Jimerez của Costa Rica, một trong những người đã kiến nghị thành lập Ủy Ban Tìm Hiểu Sự Thật.

Tôi xin trích dẫn lời của ông Volio:
“Cá nhân tôi nghĩ rằng không hề có chính sách kỳ thị, đàn áp, ngược đãi đối với Phật giáo trên căn bản tôn giáo. Lời khai về những sự việc này thường chỉ là những tin đồn vô căn cứ hoặc đã được thổi phồng hay phóng đại.”

(Google:  BẢN PHÚC TRÌNH CUỘC ĐIỀU TRA CỦA PHÁI ĐOÀN LIÊN HIỆP QUỐC VỀ VẤN ĐỀ ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO HAY 1963)

 

———————————————————————————–
1-Nhật Ký của Đại Úy Đỗ Thọ, Tùy Viên của Tổng Thống Diệm, một Phật Tử và là cháu ruột của tướng Đỗ Mậu,(một trong những người đảo chánh):
Sau khi vụ nổ xẩy ra ở Huế, Tổng Thống khiển trách ông Cẩn thật nặng, nhưng những báo cáo từ văn phòng ông Cẩn và chỉ huy trưởng Thừa Thiên chối rằng sự việc xẩy ra không phải do ông Cẩn mà là do ai đó… Ông Cẩn hằng năm vẫn đến chùa Từ Hiếu để viếng linh của tổ tiên dòng họ ông đặt ở đây. Ông Diệm nói: “Mọi tôn giáo đều tốt. Luôn luôn có những người tốt và người xấu trong mọi tôn giáo. Chúng tôi bây giờ là Công Giáo, chứ tổ tiên chúng tôi đều là Phật Tử. Vậy, nếu những vị sư ở chùa Từ Đàm, Từ Hiếu, Diệu Đế có cần chi, các ông phải giúp đỡ họ.”

Đỗ Thọ còn nói rằng TT Diệm không bao giờ có quan niệm tôn trọng Công Giáo mà coi nhẹ Phật Giáo. Trong một chuyến đi đến Vĩnh Bình, khi mà ông Tỉnh Trưởng ở đây cho treo cờ Công Giáo để đón Tổng Thống, ông đã nổi giận và truyền lệnh cho Tỉnh Trưởng phải hạ cờ Công Giáo đi trước khi ông ra khỏi máy bay.

Những lời Đỗ Thọ nói, theo tôi, rất khả tín, vì không thể có một người là cháu của kẻ đã giết Tổng Thống lại dám bịa ra những điều tốt về người đã bị chính chú ruột của mình giết chết. (Tội nghiệp cho Đỗ Thọ, ít lâu sau khi cuốn sách được xuất bản, Đại úy Đỗ Thọ đã chết bất ngờ trong một chuyến đi công tác! Chiếc máy bay chở ông đã rơi xuống đất vì một tai nạn không ai được báo cáo.)” (Chu Tất Tiến)
———–——————————————————————————-

Nếu TT Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, bênh công giáo, ghét và đàn áp phật giáo, thế thì tại sao ông đã làm những điều này?

Kỳ thị tôn giáo.

1.- Phật giáo
a- Chùa Xá Lợi
Ngay từ những năm đầu của chế độ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã áp dụng một chính sách đặt biệt đối với Phật giáo. Tại Sàigòn Tổng Thống thường giúp đỡ tài chánh khích lệ Hội Phật học do cư sĩ Mai Thọ Truyền làm Hội Trưởng, đặc biệt là xây chùa Xá Lợi với mục đích duy nhất là dùng làm nơi nghiên cứu, học hỏi giáo lý, mở rộng kiến thức, củng cố niềm tin nơi tín đồ Phật giáo. Chùa Xá Lợi được xây cất năm 1958 với kinh phí 2.000.000$ Việt-Nam được trích ra từ quỹ Xã Hội của Phủ Tổng Thống và trao cho ông Mai Thọ Truyền chủ trì việc xây cất với mục đích phát triển và kiện toàn tổ chức Phật giáo. 

b- Chùa Vĩnh Nghiêm.
Khoảng năm 1959-1960, Thượng tọa Thích Tâm Giác và bà Đức Âm xin mua đất xây Chùa. Khu đất này thuộc Bộ tài chánh, nhưng Bộ tài chánh không dám quyết định. Khi trình lên Tổng Thống, Tổng Thống nói: ”Làm chùa thì cho ngay đi!”.
Sau đó họ mua được khu đất hơn một mẫu tây sát đầu cầu Công Lý với giá tượng trưng 1$ Việt-Nam. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát, ngôi chùa này được xây mang tên Vĩnh Nghiêm. 

c- Chùa Từ Đàm
Riêng chùa Từ Đàm do Thích Trí Quang trụ trì, ông Ngô Đình Cẩn giúp đỡ đặc biệt, nhất là phương diện tài chính, vật liệu, dụng cụ cần thiết do chính tay ông Cẩn hay qua các ông Đại Biểu Chính Phủ hoặc các Tỉnh Trưởng sở tại. Ngoài ra, khi nhà thầu củi Thăng Long trên đường Phan Bội Châu, Huế, đã trúng thầu khai thác củi trong kế hoạch khai hoang mật khu Hoa Mỹ của Việt Cộng, thuộc quận Phong Điền tỉnh Thừa Thiên, ông Cẩn còn đặt điều kiện với nhà thầu củi Thăng Long phải cung cấp cho chùa Từ Đàm mỗi tháng 30.000$. Vì thế chùa Từ Đàm càng ngày càng phát triển về mọi mặt. 

Một điều rất đặc biệt, để có vật liệu đúc chuông cho một số chùa mới xây, ông Cẩn yêu cầu Đại Đội Quân Cụ Quân Khu II bằng mọi cách, cung cấp vỏ đạn cho Th.T. Trí Quang. Công việc này thật khó, vì lúc ấy Hoa Kỳ chỉ mới cung cấp súng đạn cho quân đội Việt-Nam trong công tác huấn luyện nhưng rất hạn chế, kèm theo nhiều thể thức kiểm soát hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên, hai người đứng đầu công tác này là Trung Úy Ngô Văn Điều và Thượng Sĩ Nguyễn Hiệp (đều là nggười Công Giáo) đã tìm mọi cách thực hiện lời yêu cầu của ông Ngô Đình Cẩn.

Được chính quyền tích cực giúp đỡ, Phật giáo miền Trung phát triển mạnh; xây thêm nhiều cơ sở, chùa miếu mới. Thêm vào đó, sự qua lại giữa ông Cẩn và Th.T. Trí Quang rất thường, nhất là vào những dịp LỄ, TÊT. Nên từ đó, uy tín tăng sĩ chùa Từ Đàm, đặc biệt là Th.T. Trí Quang, càng ngày càng nổi bật trong giới Phật giáo. Vì thế ông ta mặc nhiên được coi như đại diện chính thức cho cả khối Phật giáo miền Trung với chính quyền. Uy tín của ông ta vượt trội hẳn trên các tăng sĩ khác.

Ngoài ra còn khoảng 4.000 ngôi chùa khác được xây thêm dưới chế độ Đệ I Cộng Hòa. 

Ngoài những ưu đãi như trên, Tổng Thống còn có kế hoạch lâu dài, khuyến khích Phật tử đi du học. Nhất là Tổng Thống giúp đỡ và phê chuẩn thành lập ”Hội Phật Giáo Thống Nhất” toàn quốc.

Sau khi Phật giáo đã có tổ chức thống nhất, Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại khuyến khích, cung cấp tài chánh cho các tăng sĩ đi du học, hầu nâng cao trình độ cho hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo Việt-Nam

Vào khoảng cuối tháng 8 năm 1963, Tổng Thống đến thăm ngôi chùa nữ tại Phú Lâm do sư bà Diệu Huệ chủ trì. Trong khi đàm đạo, nhiều sư nữ đã oà lên khóc, vì họ biết từ trước đến giờ, Tổng Thống đã từng nâng đỡ Phật giáo rất nhiều, nay nhiều kẻ lại quay lưng lại. Cuộc nói chuyện vừa dứt, một tăng sĩ tiến tới chào Tổng Thống.

Tổng Thống hỏi:
– Thầy về khi mô?
– Thưa Tổng Thống, con về được gần ba tháng. Hôm về anh em chúng con (không nói rõ bao nhiêu người) đã đến trình diện Tổng Thống.
– Học có được không?
– Dạ thưa, được. Nhờ lòng ưu ái của Tổng Thống cho đi du học, chúng con đã cố gắng theo kịp các bạn cùng khóa.
– Tiền bạc có đủ không?
– Dạ, cám ơn Tổng Thống. Nhờ lòng ưu ái của Tổng Thống thương cho quá đầy đủ.
– Học về rồi phải đem những kiến thức đã học được áp dụng vô tổ chức của mình, từ tổ chức đến việc đào tạo cán bộ. Tôi nghĩ bên Phật giáo nên chủ trương như bên Công Giáo, nghĩa là phải đi tu từ 9, 10 tuổi đến 30 tuổi mới thành linh mục. Có như thế mới chọn lựa kỹ càng cả về đạo đức và học vấn. Bên Công Giáo lúc sau ni có thâu nhận thanh niên vào học lên linh mục sau khi đã đậu tú tài. Nhưng cách đó xem ra chọn lựa không được kỹ càng bằng lớp bắt đầu đi tu từ nhỏ.

Nói đến đây Tổng Thống bảo vị tăng sĩ:
-Thôi! Cố gắng làm việc tử tế.
Năm 1959, sau khi đắc cử nhiệm kỳ II mới được ba ngày, Tổng Thống âm thầm đến thăm các chùa tại Saìgòn và những vùng phụ cận để cám ơn các thầy đã ủng hộ ngài thắng cử.

TT Diệm nói với các thầy rằng: Các thầy cũng biết, mình đang phải chiến đấu chống lại chủ nghĩa CS vô thần rất tàn bạo. Chỉ có niềm tin tôn giáo mới đủ sức mạnh chống lại được chủ nghĩa tai hại này. Vì thế, đối với việc phát huy, củng cố, bảo vệ niềm tin tôn giáo, bất kỳ là tôn giáo nào, mình cũng có bổn phận khuyến khích và giúp đỡ.

Sau đó Tổng Thống đi bắt tay các thầy, ngài thấy Đại Đức Thích Quảng Liên, liền hỏi:
– Thầy về khi mô?
– Dạ, thưa con mới về, chưa kịp vào chào Tổng Thống.
– Không sao. Khi mô thầy muốn vô, nói sĩ quan tùy viên sắp xếp cho vô. 
Sự việc trên làm TGM Sàigòn rất khó chịu. Vì thế linh mục Nguyễn Văn Vàng đã chỉ trích chính phủ trên tòa giảng trong nhà thờ Đức Bà, Sàigòn.  (Linh Mục Vàng bị chết trong trại cải tạo của CS 1985) (Vũ Ánh, một ngòi bút chính trực’ qua đời 3-2014 tại California)

b- Dưới thời Pháp thuộc và qua các chính phủ dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại, Giáo Hội Công Giáo được mở các chủng viện để đào tạo linh mục, tu sĩ. Chương trình giảng dạy không phải chịu sự kiểm soát của chính phủ.

Đến thời Đệ I Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Đạo Dụ số 54/7, xóa bỏ quy chế này. Đạo Dụ ấn định: ”Không ai được mở trường tư mà không có giấy phép của chính phủ. Các trường được phép mở phải chịu sự kiểm soát của chính phủ về nhân viên, chương trình giảng dạy.”

Việc ban hành Đạo Dụ này đã gây nên làn sóng phản đối dữ dội trong giới Công Giáo.

Đầu năm 1957 Hội Đồng Giám Mục VN, trong đó có cả ĐGM Ngô Đình Thục, họp ra thông cáo chiếu điều 17 Hiến Pháp, lên án Đạo Dụ 54/7 là vi phạm tự do tín ngưỡng và yêu cầu xóa bỏ tất cả những điều khoản liên quan đến chủng viện.

Vì thế một số linh mục đến nhờ Ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình dẫn vào gặp Tổng Thống. Trước khi vào, nhiều linh mục huyênh hoang rằng: ”Lần này tôi sẽ nói toẹt ra hết. Tôi không nể nữa đâu”. Nhưng khi vào, các vị đều cúi mặt hoặc quay đi không dám nhìn Tổng Thống.

Khi được Tổng Thống giải thích, các linh mục nhìn ra mục đích của Đạo Dụ là tạo sự hòa đồng các tôn giáo, gây tình đoàn kết toàn dân, nhằm bẳo vệ quyền lợi tối thượng của đất nước.

Thế rồi, Tổng Thống quay sang trách khéo Ông Bộ Trưởng Nguyễn Quang Trình:
– Họ không hiểu, ông Bộ Trưởng phải giải thích cho họ. Có vậy cũng đòi vào gặp tổng thống.
Rồi Tổng Thống đứng dậy đi vào.
Sau đó Đạo Dụ được giới Công giáo nghiêm chỉnh thi hành. 

3.- Cao Đài.
Trong một lần Tổng Thống tiếp phái đoàn Cao Đài đến thăm xã giao, ngài nói: ”Tôi kính trọng quý ngài. Một số linh mục Công Giáo đến gặp tôi xin phép được xổ số Tômbola để có tiền xây nhà thờ. Tôi nói: Cao Đài họ có Tombola đâu, sao tôi thấy họ cất thêm thánh thất mới đều đều”. Rồi ngài chua chát kết luận: ”Cứ Tombola! Tombola mới xây được nhà thờ!” 

(Thanh Hùng)

*Sau khi TT Diệm chết, dù bọn đảo chánh cố tìm kiếm tài sản của gia đình họ Ngô, nhưng hóa ra ngay cả TT Diệm cũng không từng làm chủ một căn nhà nào cả. Ông không có tiền bạc, không từng có tài khoản hay trương mục nào trong các ngân hàng trong nước hay nước ngoài. Ông Nhu và Bà Nhu cũng không có tài sản. Ông không có tài sản cá nhân, áo quần của ông Diệm ngoài mấy bộ đồ vét và áo quần mặc ngũ, tủ áo của ông trong dinh TT gần như trống rổng.
—————————————————————

Gia Đình Trị ?

“Xin nói thêm về gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà các Thầy cáo buộc “gia đình trị”. 
– Ông Ngô Đình Khôi đã bị Việt Cộng sát hại năm 1940 cùng Ông Tạ Thu Thâu và Huỳnh Phú Sổ. 
– Giám mục Ngô Đình Thục do Giáo Hội Công Giáo bổ nhiệm cai quản địa phận Vĩnh Long trước ngày TT Diệm chấp chánh. 
– Ông Ngô Đình Luyện Đại Sứ VNCH tại Anh Quốc, do Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm trước lúc Tổng Thống Diệm chấp chánh. 
– Ông Ngô Đình Nhu làm việc cạnh Tổng Thống giúp soạn thảo kế hoạch nên người ta gọi là: “Ông cố vấn”. 
– Ông Ngô Đình Cẩn (Miền Trung còn gọi Cậu Út Trầu). ” (Thanh Hùng)

Theo nhiều nguồn tin từ sách báo, ông Nhu và ông Cẩn không có chức vụ chính thức trong chính quyền và cả hai đều làm cố vấn giúp TT Diệm, họ làm việc mà không lãnh lương. Cả hai đều không được phép tháp tùng theo TT Diệm trong các cuộc công du nước ngoài. Họ không được xuất hiện chụp hình chung với TT Diệm ở nơi công cọng.
———————————————————-
Gia ĐìnhTrị:

1.- Để chứng tỏ Tổng Thống Ngô Đình Diệm gia đình trị hay không? Chúng ta nghe ông Ngô Đình Nhu trả lời bọn sinh viên Việt Cộng năm 1960 tai Paris như sau:

– Như ông bạn anh vừa hỏi tôi: Chính phủ Ngô Đình Diệm là chính phủ gia đình trị?
Giả thử anh là Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước năm 1954, khi thực dân Pháp còn tiếp tục khuyến khích các phần tử thân Pháp lật đổ chính quyền, cũng như yểm trợ, xúi giục nhiều phiến quân có thành tích bất hảo như thổ phỉ đánh phá quân đội quốc gia, trước cảnh dầu sôi lửa bỏng do các phần tử đối nghịch tạo nên, rắp tâm tiêu diệt anh,nếu phải chọn cộng sự viên sẵn sàng chết sống có nhau vì đại cuộc, giữa hai người đồng tài, đồng sức, đồng chí hướng, một bên không là thân bằng quyến thuộc, một bên là cật ruộtanh có cảm thấy gần như không cách chi anh không hành xử như Tổng Thống Ngô Đình Diệm chăng?…

Khi được tin hai anh em T.Th. Ngô Đình Diệm bị thảm sát, Tổng Thống Trung Hoa Quốc Gia Tưởng Giới Thạch đã thốt lên: ”Cả 100 năm nữa Việt-Nam mới có Ngô Đình Diệm thứ hai. Biết đến bao giờ Việt-Nam mới sản sinh ra được Ngô Đình Nhu thứ hai! Ông ta là Khổng Minh của Việt-Nam”. (Thanh Hùng)
——————–—————————————
” LÊ MÁY CHÉM ĐI KHẮP MIỀN NAM…” – Bình luận
http://trankytrung.com/read.php?442

15-11-2011

Trong buổi truyền hình trực tiếp của VTV về nhạc sỹ Văn Ký tối thứ 7 ( ngày 13/11/2011) vừa rồi, khi giới thiệu về hoàn cảnh ra đời của bài hát “bài ca hy vọng” của nhạc sỹ Văn Ký, cô MC cho biết, thời điểm mà bài hát này ra đời là lúc phong trào cách mạng ở miền Nam bị đàn áp rất khốc liệt, Mỹ – ngụy “ …lê máy chém đi khắp miền nam giết hại các chiến sỹ cộng sản, người dân yêu nước”.

Theo tôi biết, khi miền nam được giải phóng chỉ có một máy chém nặng cả tấn để ở nhà lao Chí Hòa (Sài Gòn), thực chất mang tính chất dọa dẫm, biểu thị quyền lực, luật pháp của một chế độ chứ nó không hề dùng để chặt đầu người. Tôi được biết, dưới chế độ của ông Ngô Đình Diệm, duy nhất có một lần dùng máy chém để chém đầu ông Hoàng Lệ Kha, một nhân sỹ yêu nước ở Tây Ninh ( xin lỗi nếu tôi nhớ nhầm họ tên ông này, vì tôi nghe chuyện này lâu lắm rồi, qua một nhà sử học nổi tiếng). Về sau, thấy dã man, ông Ngô Đình Diệm yêu cầu không sử dụng biện pháp tử hình này nữa.

Lịch sử cần tôn trọng sự thật. Bây giờ nhiều sự thật đã sáng tỏ và đang sáng tỏ, không thể tô hồng hay bóp méo, xuyên tạc .
Lòng dân chỉ hòa hợp, đoàn kết khi mọi hiểu lầm qua đi, mọi khúc mắc của lịch sử được giải đáp, những điều không đúng được sửa sai.

“ …Lê máy chém đi khắp miền nam…” phải khẳng định, điều này trước năm 1975 ở miền nam là không có!
Đã không có thì không nên nhắc lại.
Nhắc lại là sự xuyên tạc, cố chấp, không thật lòng.
Nên không ?

Trần Hoàng blog

 

—————————————————————-

Trang 71 http://www.tpprc.org/publication/rajya_sabha_debates_on_tibet-2006.pdf

Chính phủ VNCH tặng 200 tấn gạo cho người dân Tây Tạng

30 April 1962 Written Answers to Questions
SOUTH VIETNAM’S OFFER OF RICE FOR TIBETAN REFUGEES
*116. Shri N. Sri Rama Reddy: Will the Prime Minister be pleased to state whether it is a fact that the Government
of South Vietnam have offered 200 tons of the rice for the relief of Tibetan refuges in India?
The Minister of State in the Ministry of External Affairs (Shrimati Lakshmi Menon): Yes, Sir.

Trần Trung Đạo: TT Ngô Đình Diệm đã từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?

http://thegioinguoiviet.net/showthread.php?p=129639#post129639

 

—————————————————————–

Giới thiệu:

basam.info

danluan.org/thu-vien

Các vụ khủng bố bên Iraq/Afghanistan ngày nay thua xa Các vụ khủng bố của Việt cộng ở miền Nam Việt Nam trước 1975

http://www.11thcavnam.com/education/namterror.htm

Việt cộng ném bom ám sát bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục VNCH
http://www.corbisimages.com/Enlargement/Enlargement.aspx?id=U1618826&tab=details&caller=search

Việt cộng đặt bom nhà hàng nổi Mỹ Cảnh Sài gòn, 42 chết, 81 bị thương
http://phulam.com/mycanh2.htm
http://phulam.com/mycanh3.htm

* 161 vụ khủng bố nhắm vào người dân sự, học sinh, phụ nữ, trẻ em, người già, đám đông  do đảng CSVN tổ  chức và chỉ đạo cho cán bộ hành động từ 1960-1969: đặt chất nổ, Bắt cóc, đốt nhà, giật mìn xe đò, ném 4 quả lựu đạn vào rạp hát, vào đám đông dân làng

http://lengoctuyhuong.wordpress.com/category/phan-h%E1%BA%A1nh-toronto

——————————-

 

Những sự thật không thể chối bỏ (phần 15) – Người chồng, người cha tồi tệ

Kính thưa bạn đọc Danlambao, thông suốt 14 phần của loạt bài gồm 15 phần “Những sự thật không thể chối bỏ”, tôi hoàn toàn đề cập đến những lỗi lầm lớn của ông Hồ Chí Minh với dân tộc và đất nước Việt Nam như: bán nước, giết người hàng loạt, làm gián điệp cho Trung cộng, âm mưu Hán hóa Việt Nam và tội ác chiến tranh… Đó chính là những sự thật, những tội ác mà dân tộc ta cần được biết trước sự bưng bít của đảng cộng sản Việt Nam. 
Bài thứ 15 này tôi xin trình bày về một tội ác cá nhân của ông Hồ với những người vợ và con ông ta. Trong phần này tôi xin không trình bày liệt kê ông ta có bao nhiêu vợ, bao nhiêu con mà tôi xin chứng minh những điều sau đây: Ông Hồ có vợ con chứ không phải không có như ông ta và đảng cộng sản tuyên truyền “Cả đời hi sinh hạnh phúc riêng tư cho dân tộc”; tại sao lúc còn sống ông ta không dám công khai thừa nhận chuyện này; và sự thật về một đảng cộng sản lừa dối nhân dân cả về đời tư của ông ta.
Thật ra, trước tôi đã có nhiều tác giả viết về đề tài vợ con của ông Hồ, hay như DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã nói rất rõ. Tuy nhiên tôi viết bài này không nhằm chỉ trích việc ông Hồ có nhiều vợ con, vì với tôi chuyện có nhiều vợ con không phải là tội ác, mà cái chính là ông ta cư xử thế nào với vợ con ông ta và tại sao ông ta lại phải lừa dối dân tộc điều này. Xin được trình bày cùng bạn đọc.
A. Bác đâu có “Cả đời hi sinh hạnh phúc riêng tư cho dân tộc”:
Theo tôi đối với ông Hồ: Vợ, người tình chỉ để “giải khuây”– con chỉ là “kết quả không mong đợi”. Sở dĩ tôi phải nói vậy vì nếu là một người chồng, người cha tốt thì dù thế nào họ cũng phải thừa nhận với mọi người và chăm sóc vợ con đàng hoàng. Đằng này ông Hồ không hề thừa nhận mình có vợ, con và đối xử với họ tàn tệ. Xưa có câu “Hổ dữ không ăn thịt con” vậy mà ông Hồ không coi trọng nghĩa cũng phu thê, cũng chẳng thương con cái thì làm sao ông ta có thể là vị “Thánh” yêu nước, thương dân như đảng cộng sản tuyên truyền và ông ta tự nhận? Hãy điểm qua những sự kiện chính để thấy điều này. 
Người Vợ Tăng Tuyết Minh: 
Bà Tăng Tuyết Minh là một người Trung quốc đã kết hôn với ông Hồ khi ông ta còn mang danh là Lý Thụy. Cho đến bây giờ đảng cộng sản vẫn giấu nhẹm việc này, nhưng để chứng minh cho bạn đọc nhất là những người còn tin vào ông “thánh” Hồ Chí Minh thì không phải là một điều khó khăn.
Đầu tiên, trên Wiki có bài viết về bà Tăng Tuyết Minh với đoạn như sau:
“Tăng Tuyết Minh (chữ Hán: 曾 雪明, 1905–1991) là một phụ nữ Trung Quốc. Theo nghiên cứu của một số học giả Trung Quốc, Pháp, và Hoa Kỳ thì bà đã kết hôn với Hồ Chí Minh, khi đó có bí danh là Lý Thụy vào năm 1926 và đã sống chung với ông được nửa năm cho đến khi ông phải rời Trung Quốc sau vụ chính biến năm 1927.[1][2] Sau này khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai người đã tìm cách liên lạc nhau nhưng không được… Tháng 10 năm 1926, hôn lễ giữa Lý Thụy, (bí danh hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khi đó) và Tăng Tuyết Minh được tổ chức tại nhà hàng Thái Bình, với sự chứng kiến [3] của Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một số học viên khóa huấn luyện phụ vận.[4] Đây cũng là địa điểm mà Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức kết hôn trước đó một năm.”
Hẳn mọi người còn nhớ ở phần 8 tôi đã chứng minh Lý Thụy chính là một bí danh của ông Hồ khi ông ta hoạt động ở Trung Quốc và Thái khi ông ta chủ mưu bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp. Và bài viết trên Wiki chỉ rõ ông Hồ-Lý Thụy đã cưới bà Tăng Tuyết Minh. Như vậy có thể coi bà Minh là vợ đầu tiên của ông Hồ có hôn thú và hôn lễ đàng hoàng. 
.
Thứ hai, hiện nay có một bức thư của ông Hồ – Lý Thụy gửi bà Tăng Tuyết Minh, đã bị mật thám Pháp tại Đông Dương chặn được và giữ lại ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d’Outre-Mer – Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence (Daniel Hémery, HO CHI MINH De L’Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.) Khi ở Thái Lan ông Hồ đã viết bức thư này có nội dung như sau: 
“Dữ muội tương biệt,
Chuyển thuấn niên dư,
Hoài niệm tình thâm,
Bất ngôn tự hiểu.
Tư nhân hồng tiện,
Dao ký thốn tiên,
Tỷ muội an tâm,
Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnh
Nhạc mẫu vạn phúc.
Chuyết huynh Thụy.”
Dịch nghĩa: “Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về, Thụy”.
Rõ ràng đây là bức thư gửi người mà ông ta đã lấy làm vợ. Điều này khẳng định ông Hồ có người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh.
Thứ ba, Theo bài Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh, đã đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 12-2001 xuất bản tại Nam Ninh của Hoàng Tranh (Huang Zheng) có viết:
“Tháng 5 năm 1950 Tăng Tuyết Minh nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên Nhân dân Nhật báo cùng với tiểu sử, bà tin chắc đó chính là vị Chủ tịch Việt Nam. Bà đã cố gắng liên lạc với ông qua đại sứ Hoàng Văn Hoan và tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng tất cả cố gắng của bà đều không thành.”
Tăng Tuyết Minh khi đã cao tuổi. Trên tường nhà có treo ảnh Hồ Chí Minh (viet.com.cn)
Đây là một tác giả của Trung cộng đã thừa nhận việc ông Hồ có vợ con là sự thật. Việc sau này bà Minh lấy ông Hồ và treo ảnh ông ta trong nhà cũng nói lên sự thật là ông Hồ có vợ là bà Minh.
Thứ tư, trong cuốn sách được in năm 1986 tại Liên Xô có tên “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của Mikhail Vasaep – một học giả, nhà nghiên cứu thuộc phân viện lịch sử đảng cộng sản Liên Xô cũ –  tại trang 363: “…Ông Hồ Chí Minh cưới người vợ Tăng Tuyết Minh tại Trung quốc sau khi được ông Lâm Đức Thụ tích cực thu xếp…”
Như vậy có thể khẳng định việc ông Hồ lấy bà Tăng Tuyết Minh là sự thật qua tài liệu này của tác giả đảng viên đảng cộng sản Liên Xô. 
Thứ năm, một nhà nghiên cứu thiên tả là bà Quinn khi đề cập đến người vợ Trung Quốc của ông Hồ cũng đã nói trong cuốn sách “Ho Chi Minh: The Missing years” của mình: “Vì một vài lý do nào đó các giới chức tại Hà Nội vẫn chưa chịu đả động gì đến những điều tiết lộ theo đó ông Hồ có liên hệ tình cảm thực sự với những người thuộc phái nữ. Mặc dầu giờ đây phía Trung Quốc đã trình bày trước công luận cả một bức ảnh và một bài viết nói về việc ông Hồ kết hôn với một phụ nữ vào tháng Mười, năm 1926, nhưng Hà Nội vẫn chưa chính thức xác nhận.
Vậy ta có thể thấy là những gì bà Quinn nói trùng khớp vời lời kể của ông Hoàng Tranh và những tài liệu của phía Liên Xô khẳng định ông Hồ cưới bà Tăng Tuyết Minh năm 1926.
Thứ sáu, theo tác giả Daniel Hémery“Lý Thụy không gặp lại được vợ mình là Tăng Tuyết Minh từ sau năm 1927, có thể vì Tuyết Minh bị thất lạc do chiến tranh quốc cộng ở Trung Hoa vào đầu năm 1927.” (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l”Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 63, 145.)
Ở đây cũng cần nói thêm báo Tuổi Trẻ của Thành đoàn Thanh niên CSHCM thành phố Hồ Chí Minh đã trích đăng tài liệu của Daniel Hémery trong số báo ngày 18-5-1991. Tổng biên tập báo này lúc đó là bà Kim Hạnh liền bị kiểm điểm và bị mất chức.
Kết luận: Qua sáu dẫn chứng chúng ta có thể thấy ông Hồ thật sự đã cưới bà Tăng Tuyết Minh chứ không phải là cả cuộc đời cô độc, không lấy vợ để lo cho dân tộc như ông ta và đảng cộng sản tuyên truyền. Và sự thật là sau khi đã có thể coi như là “Công thành danh toại” thì ông Hồ lại không thừa nhận và hỏi thăm bà Tăng Tuyết Minh. Như vậy để có thể thấy ông Hồ đâu có phải là người trọng nghĩa phu thê, và là người chồng tồi. 
Bà Nguyễn Thị Minh Khai: 
Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941),
một trong những đảng viên đầu tiên
của đảng CSĐD – Nguồn/Ảnh: Ho Chi Minh, A life,
William J. Duiker/TTXVN.

Theo Wiki: “Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình, nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Minh Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm 1930.” 

(http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Thị_Minh_Khai)

Để chứng minh cho việc trước khi lấy ông Lê Hồng Phongthì bà Minh Khai chính là vợ của ông Hồ xin được dẫn chứng như sau:
Đầu tiên, trong tập thư của đảng cộng sản Liên Xô hiện lưu trữ tại cục lưu trữ liên bang Nga có một danh sách gửi tới Moscow về tên người tham gia hội nghị đảng cộng sản quốc tế năm 1935 có nói đến việc bà Minh Khai có chồng tên là Lin. Sự việc này cũng được nhà báo Bùi Tín ghi lại trong cuốn sách của mình (Thành Tín, sđd. tr. 151.):
Ngày 25-7-1935, tới Moscow khai mạc đại hội cộng sản quốc tế. Phái đoàn đại diện đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm có: Lê Hồng Phong, Quốc, Kao Bang, vợ Quốc và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao đến. Khi đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và mở ngoặc tên chồng là Lin. Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó. Những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tới nhà ở tập thể của các cán bộ cộng sản cũng đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng, chung giường, chung đồ dùng…”.
Cũng cần phải nói thêm Lin chính là một trong những bí danh của ông Hồ. Trên website của tỉnh Thừa Thiên Huế có xác nhận Lin là một trong những bí danh của ông Hồ. Xin giới thiệu link đề bạn đọc kiểm chứng: http://bachovoihue.violet.vn/entry/show/entry_id/6045326.
Và cũng một website nữa của đảng cộng sản Việt Nam khẳng định Lin chính là một trong những bí danh của ông Hồ. Đây là bài viết trên website của bộ Nông Nghiệp Việt Nam (http://nongnghiep.vn/nongnghiepvn/72/122/21/58006/Cac-but-danh-cua-Bac-Ho.aspx). Bài viết trên của ông Nguyễn Lân Dũng có đoạn: “Lin: Dùng tại 5 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1935 đến tháng 9 năm 1939.”
Như vậy có thể khẳng định Lin chính là ông Hồ và ông ta đã có vợ là bà Nguyễn Thị Minh Khai như chính bà ta khai khi đi họp ở Moscow. 
Thứ hai, theo lời con gái của bà Vera Vasilieva – một nhân viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng Sản, kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Bùi Tín viết lời trong “Về ba ông thánh”, thì trong thời gian diễn ra đại hội này, ông Lin hay ghé nhà bà Vera Vasilieva thăm, và thường đi cùng với một phụ nữ Việt Nam tên là Phan Lan. Phan Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai dùng khi ở Moscow.
Như vậy có thể khẳng định nếu ông Hồ và Minh Khai chính là cặp bài trùng không những chỉ là đồng chí mà còn chính là vợ chồng như chính bà Minh Khai tự khai. 
Để minh chứng cho cái tên Phan Lan chính là Minh Khai tôi xin được nêu dẫn chứng –đó là đoạn trích trong bài viết  “Tổng Bí thư Lê Hồng Phong và chị Minh Khai: Một tình yêu lớn”  trên tờ Báo Mới của đảng cộng sản Việt Nam: “Trong Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và Minh Khai đều có tham luận. Minh Khai đề cập đến “Vai trò phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống việc chuẩn bị chiến tranh chống đế quốc mới, đấu tranh cho hòa bình”. Bài phát biểu của Phan Lan (bí danh của Minh Khai), đại biểu trẻ nhất Đại hội đã gây được tiếng vang và cảm tình của nhiều người”.
Thứ ba, xin được nói rõ hơn về cuốn sách của bà Quinn – một người thiên tả người Mỹ đã nói về sự kiện ông Hồ và bà Minh Khai là vợ chồng. Khám phá ra việc bà Minh Khai là vợ ông Hồ do tiến sĩ Sophie Quinn-Judge tìm ra khi tham khảo các tài liệu của Quốc Tế Cộng sản ở Nga sau khi chế độ Cộng sản bị tan vỡ cùng với Liên Bang Xô Viết vào năm 1989. Chi tiết này đã được bà Quinn-Judge, một chuyên gia nghiên cứu về đảng CSVN và đặc biệt cuộc đời ông Hồ, công bố trong cuốn sách “Ho Chi Minh: The Missing Years (1914-1941)” do University of California Press xuất bản. 
Đề cập các tài liệu liên quan tới ông Hồ được Quốc Tế Cộng Sản lưu giữ ở Nga, bà Quinn-Judge cho biết: “Đống hồ sơ này cũng chẳng có được bao nhiêu, sắp xếp lộn xộn, đôi khi in lại hoặc đánh máy, cũng có khi nguyên bản như một lá thư, một vài tài liệu có chữ ký của ông Hồ Chí Minh hoặc ký tắt với danh xưng là Quak, Quac, NAQ hoặc với bí danh là Lee hay là Lin. Sau này khi tra khảo tới các hồ sơ lưu trữ về thuộc địa của Pháp tại Aix-en-Provence, tôi thấy có được lợi ích là góp phần để sắp đặt cho các tài liệu về Quốc Tế Cộng sản theo thứ tự hợp lý hơn dựa vào các tài liệu tại hai nơi thường khi cùng ghi nhận đến các diễn biến như nhau.”
Liên quan tới ông Hồ và bà Minh Khai, bà Quinn-Judge cho biết: 
 
“Một tiết lộ khác được khám phá qua các tài liệu này là có hai sự kiện liên quan đến thời kỳ hoạt động của bà Nguyễn Thi Minh Khai chứng tỏ bà là vợ của ông Hồ Chí Minh
 
Một sự kiện thể hiện qua lá thư được viết vào năm 1934 của ông Hà Huy Tập gửi tới Ban Bí Thư Miền Đông, nêu tên đại biểu được cử đi tham dự Đại Hội Quốc Tế Cộng sản lần thứ bảy, trong đó có một người nói là ‘vợ của Quốc,’ còn sự kiện kia là ở một chỗ khác thấy nói tới danh xưng người đàn bà đó là bà Vãi (bà Minh Khai vào thời gian những năm đầu hoạt động có làm nghề hàng vải). Vì trong phái đoàn chỉ có một phụ nữ cho nên dĩ nhiên đó phải là có ý nói tới bà Nguyễn Thi Minh Khai. Sau này tại Mạc Tư Khoa, khi phải làm tờ khai lý lịch cá nhân, khi điền vào câu hỏi về tình trạng gia đình bà đã ghi là có chồng và kể tên chồng là Lin. Đó cũng là danh xưng của ông Hồ tại Mạc Tư Khoa kể từ năm 1934 cho đến năm 1938.”
Thứ tư, cũng cần nhắc lại cuốn sách “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của một học giả Liên Xô cũ có tên Mikhail Vasaep đã đề cập ở trên có viết tại trang 366 “Ông Hồ Chí Minh cũng đã có người vợ là người Việt Nam cũng là đồng chí của mình từ năm 1933 sau khi ông không còn liên lạc gì với người vợ đầu tiên Tăng Tuyết Minh. Người vợ thứ hai của ông Hồ Chí Minh chính là nữ chiến sỹ cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu – Nguyễn Thị Minh Khai”
Có thể nói cuốn sách của ông Vasaep xuất bản năm 1986 trước khi bà Quinn đưa ra cuốn sách của mình cho thấy chính người cộng sản Liên Xô đã biết rất rõ sự việc bà Minh Khai là vợ ông Hồ Chí Minh. Cuốn sách của ông Vasaep ít được biết đến vì ngay khi xuất bản đã bị đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô phản đối vì sợ lộ bí mật về hình tượng “ông Thánh” và bị cấm xuất bản. Chỉ có vài chục cuốn được giấu đi và tôi may mắn được một người thân đã từng đi Liên Xô lao động về cho tham khảo.
Kết luận: Qua bốn dẫn chứng chúng ta có thể thấy thêm một người vợ nữa của ông Hồ chính là bà Nguyễn Thị Minh Khai – người sau này lấy ông Lê Hồng Phong làm chồng thứ hai của mình. Và cũng giống như người vợ đầu Tăng Tuyết Minh, ông Hồ chưa bao giờ dám thừa nhận có lẽ vì ông ta sợ mang tiếng là nhiều vợ, lừa dối nhân dân về sự tận tụy của mình quên cả hạnh phúc riêng cho dân tộc và trên hết là cá nhân ông ta coi những người phụ nữ chỉ là món đồ chơi mà thôi. 
Người có tên Đỗ Thị Lạc: 
Ngoài hai người vợ trên ông Hồ còn có thêm một người phụ nữ thứ ba tên là Đỗ Thị Lạc. Thậm chí bà này còn có một người con gái cùng ông Hồ. Có ít người biết về bà Lạc nhưng sự thật là ông Hồ và bà Lạc đã có con gái mà đến nay không biết người con ấy sống chết ra sao sau khi ông Hồ bỏ rơi người con này.
Khi Tiêu Văn đồng ý cho ông Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), cộng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Ông Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944. Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức chị Thuần. Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều, Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với ông Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Do tình hình biến chuyển, ông Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS dưới bí danh Lucius vào tháng 3-1945. Đầu tháng 5-1945, ông Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó. Chuyện tình giữa ông Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Minh Khai, Tăng Tuyết Minh bị giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa. Để minh chứng cho câu chuyện này tôi xin dẫn chứng sau đây:
Đầu tiên, trong cuốn sách “Một cơn gió bụi” của sử gia, nhà chính trị Trần Trọng Kim đã được tôi giới thiệu ở phần 12, trang 75 của cuốn sách viết: “Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm và họ đã có một người con gái chung”.
Hẳn chúng ta cũng biết ông Trần Trọng Kim đã sống cùng thời với ông Hồ và là nhà viết sử hết sức trung thực nên những gì ông viết đáng để chúng ta tin cậy. Tuy nhiên nếu chỉ có mình đoạn trích nêu trên của ông thì khó có thể làm ta tin được sự việc có con gái của ông Hồ và bà Lạc. Xin nêu thêm những dẫn chứng khác sau đây:
Thứ hai, trong cuốn sách “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của học giả Liên Xô cũ Mikhail Vasaep đã đề cập ở trên có viết tại trang 368: “Có một người phụ nữ đã sinh cho ông Hồ Chí Minh một người con gái tại Cao Bằng (một địa danh ở Phía Bắc Việt Nam) nhưng sau này vì nhiệm vụ với cách mạng, ông Hồ Chí Minh dường như không muốn thừa nhận cháu bé …”
Đoạn trích không nói rõ tên người phụ nữ là ai nhưng những gì tác giả Liên Xô đã nói trùng khớp với nội dung về người con gái chung, nơi ở của bà Lạc mà sử gia Trần Trọng Kim đề cập. Điều này cho thấy ông Hồ thực sự có người tình và người con mà ông ta không công nhận.
Thứ ba, chúng ta cũng nên quay lại với cuốn sách của tác giả Hà Cẩn mà tôi đã từng nhiều lần giới thiệu. Trong phần 9 khi tôi đã giới thiệu về tác giả Trung cộng này (Viện Văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang, có đoạn ở trang 134 tạm dịch: “Cũng là đồng chí Cách mạng nhưng Mao chủ tịch không có đời sống tình ái bi đát như Hồ chủ tịch. Hồ Chủ tịch thậm chí có một người con gái với người đồng chí tên Thuần ở Pacbo mà không được công bố…”
Như đã biết người con gái tên Thuần kia chính là bí danh hoạt động của bà Đỗ Thị Lạc và những gì sử gia Trung cộng đề cập rất đúng với những nghiên cứu của sử gia Trần Trọng Kim và Vasaep.
Kết luận: Vậy qua 3 dẫn chứng có thể thấy ông Hồ đã có một người con gái với người tình Đỗ Thị Lạc. Sở dĩ tôi gọi bà Lạc chỉ là người tình vì không thấy ai đề cập đến lễ cưới cũng như hôn thú của bà và ông Hồ. Hay nói cách khác bà Lạc chỉ là một trong những người tình qua đường của ông Hồ. Và hành động không nhận, không nuôi người con gái của ông và bà Lạc cũng cho thấy bản chất vô trách nhiệm của ông ta với chính giọt máu của mình. Hay nói cách khác người con không biết sống chết thế nào của ông Hồ chỉ là kết quả ngoài mong đợi của ông ta trong chuỗi hành trình đi tìm thú vui xác thịt cho bản thân. 
Người đàn bà đoản mệnh Nông Thị Xuân: 
Mối tình với cô gái người Nùng tên Nông Thị Xuân được bạch hóa rõ ràng nhất qua nhiều nhân chứng còn sống viết và kể lại. Tại Hà Nội, cô Xuân được lệnh ở nhà riêng số 66 Hàng Bông Nhuộm, nhưng vẫn phải đến ‘gặp’ bác Hồ. Năm 1956, Nông Thị Xuân sinh cho ông Hồ một người con trai đặt tên Nguyễn Tất Trung. Sau đó Xuân có ý muốn chính thức hóa cuộc hôn nhân với ông Hồ. Ngày 11 tháng 2, 1957, vào khoảng 7 giờ tối, Xuân được ô tô đón sang gặp ông Hồ. Sáng hôm sau, ngày 12 tháng 2, 1957, công an báo tin cho cô Vàng (em cô Xuân) là Xuân đã chết vì tai nạn ô tô. Liền sau đó cô Vàng đến thăm xác chị ở nhà thương Phủ Doãn và chứng kiến biên bản khám nghiệm tử thi của bác sĩ. Bác sĩ cho biết nạn nhân không chết vì tai nạn ô tô, vì khám toàn cơ thể không có dấu hiệu gì cả ngoại trừ vết nứt trên sọ đầu, và bác sĩ đã tuyên bố, có thể nạn nhân bị trùm chăn trên đầu rồi bị đập bằng búa…
Cô Vàng vội chạy về báo tin ngay cho người chồng sắp cưới là một bộ đội đang bị thương tật sống ở tỉnh Cao Bằng. Vàng biết chắc rằng cô cũng sẽ bị thủ tiêu vì cô chứng kiến sự thật chị của cô do ông Hồ âm mưu sát hại. Thật vậy, ngày 2 tháng 11, 1957, cô Vàng bị giết chết và xác được tìm thấy trên sông Bằng Giang, đến ngày 5 tháng 11 xác mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ.
Tin này được phổ biến rộng rãi hơn nhờ lá thư của anh bộ đội này đệ lên Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Quốc Hội CHXHCN VN, vào ngày 29 tháng 7, 1983, trước khi anh qua đời sau cơn bạo bệnh. Trong lá thư anh bộ đội đã kể đầy đủ chi tiết những gì cô Vàng đã kể cho anh nghe, cả việc Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn được ông Hồ Chí Minh giao phó trông coi cô Xuân. Trong thư kể lại hình ảnh Trần Quốc Hoàn đã hãm hiếp cô Xuân rất tàn nhẫn trước đó một tuần khi được lệnh giết cô Xuân… Năm 2007, nhà văn đấu tranh trong nước, bà Trần Khải Thanh Thủy, đã tìm hiểu về tông tích của Trung và chính bà đã tìm gặp anh ta. Qua việc kể lại của Trần Khải Thanh Thủy người ta không ngần ngại gì nữa khi cho rằng Nguyễn Tất Trung chính là con của ông Hồ. Được biết anh ta hiện đang được Đảng ‘nuôi’ đàng hoàng trong khu nhà sang trọng tại Hà Nội.
Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), bí danh Sao đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé Trung năm tuổi (1961), người ta lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Chu Văn Tấn cùng sắc tộc Nùng với bà Xuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị cứu quốc quân đầu tiên của cộng sản ở vùng rừng núi Việt bắc. Khi ông Hồ qua đời ngày 2-9-1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung. Để minh chứng cho điều này tôi xin dẫn chứng sau đây:
Bà Nông Thị Xuân, sau đổi là Nguyễn Thị Xuân, sinh năm 1932, 
mất năm 1957. Chụp cuối năm 1956 tại Hà Nội sau khi đẻ Nguyễn Tất Trung.
Hình ảnh vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên cùng con là Nguyễn Thanh Trung 
(bên phải) tại gia đình ông Vũ Kỳ vào năm 1998; người có râu trắng dài là ông Vũ Kỳ (giữa)
Hình ảnh vợ chồng Trung và Duyên bên dòng suối ở Hang Pắc Bó – Cao Bằng (suối Lê Nin)
Đầu tiên, Toàn bộ lá thư của anh bộ đội được đăng trong cuốn “Công Lý Đòi Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần, Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, xuất bản 1997 bởi nhà xuất bản Văn Nghệ dày 394 trang. Ông hiện tỵ nạn chính trị tại Nga. Chúng ta cũng có thể xem giới thiệu cuốn sách tại link sau:
Cuốn sách của tác giả Nguyên Minh Cần có đoạn:
“Bây giờ xin quay trở lại câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau: cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặng Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, “nói là để phục vụ Bác Hồ”. Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Đệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. “Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.
 
“Em có nhiệm vụ bế cháu”, đấy là lời Vàng kể lại cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây. Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò… kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên.Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co dúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết”. Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: “Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước”. Nó nói: “Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi” Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái.
Qua những gì tác giả Nguyễn Minh Cần cho ta thấy thực sự ông Hồ và bà Xuân có con trai tên là Tất Trung và sau đó bà ta bị giết bởi Trần Quốc Hoàn. 
Thứ hai, câu chuyện cô Xuân này cũng được nhắc tới trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” củaVũ Thư Hiên, cũng một cựu đảng viên, con trai của ông Vũ Đình Huỳnh – là cận vệ, giúp việc, lễ tân trang phục, thư ký riêng, rất gần gũi với ông Hồ. Trong cuốn sách này ông Hiên đã đề cập đến việc ông Hồ có người con tên Nguyễn Tất Trung với bà Nông Thị Xuân rồi bà Xuân bị Trần Quốc Hoàn thủ tiêu.
Cũng cần nói thêm khi ông Vũ Thư Hiên gặp ông Nguyễn Minh Cần tháng 7 năm 1993 cũng đã nói với ông Cần, sau này được ông Nguyễn Minh Cần kể lại:
“Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người “cùng cảnh ngộ”, tức là cùng bị dính vào “vụ án xét lại – chống đảng”, đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện “thâm cung bí sử ” này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ Đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: “Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân…” Tôi đáp lới: “Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!” Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: “Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ?” Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: “Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà”. Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: “Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật…
Như vậy có thể khẳng định về việc ông Hồ và bà Xuân có người con và sau này bà Xuân bị thủ tiêu là sự thật.
Thứ 3, ngoài hai nhân chứng là ông Nguyễn Minh Cần và ông Vũ Thư Hiên thì chính người Trung cộng đã biết việc này và coi nó như một vết nhơ mà đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh muốn giấu nhẹm đi đề che đậy sự thật ông Hồ là người nhiều vợ con và không có trách nhiệm với gia đình mình. Chính tác giả Hà Cẩn tôi đã giới thiệu ở trên cũng vẫn trang 134 có viết tiếp về những người vợ của ông Hồ: “Ngoài người con gái với người phụ nữ tên Thuần, Hồ chủ tịch cũng còn có người con trai khác mà mẹ của anh ta bị chết một cách đầy ngờ vực trong một tai nạn giao thông tại Hà Nội.”
Điều này càng khẳng định thêm về sự thật mới quan hệ của ông Hồ và bà Xuân dẫn đến kết quả có con trai và bà Xuân bị giết. Tác giả Hà Cẩn không nói rõ thủ phạm là ai nhưng khi đề cập đến vụ án “đầy ngờ vực” cho thấy ngay cả đồng chí của ông Hồ cũng đặt dấu hỏi về ông Hồ và đảng cộng sản trong cái chết của bà Xuân.
Thứ 4, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh một sử gia, đảng viên đảng cộng sản Ba Lan – ôngConstatin Kostadinov cũng đã viết tại trang 90 cuốn sách “Những người con của lãnh tụ như sau: “Một người con trai của chủ tịch Hồ Chí Minh có tên Nguyễn Tất Trung được nuôi nấng bởi trợ lý riêng của chủ tịch nhưng đã không nối nghiệp cha làm chính trị….”
Cuốn sách được viết năm 1982 và in năm 1984 bởi nhà xuất bản Cách Mạng ở Ba Lan. Chính việc này cũng khẳng định về cuộc tình và kết quả của ông Hồ với bà Xuân.
Kết luận: Qua 4 dân chứng chúng ta có thể thấy mối tình của ông Hồ và bà Xuân là có thật và được kết thúc bằng một số phận người con không được thừa nhận và cái chết bi đát của bà Xuân cũng như em gái bà. 
Một người phụ nữ Nùng khác – Nông Thị Trưng
Một phụ nữ cũng người sắc tộc thiểu số, Tầy, khá xinh đẹp tên Nông Thị Ngác. Lý do câu chuyện tình đặc sắc này được nổi bật những năm sau này là do cuộc phỏng vấn của tờ báo Xuân tại Việt Nam vào khoảng năm 1997. Nhà báo có phỏng vấn bà Nông Thị Ngác, một chứng nhân sống nói về ‘Bác Hồ’. Bà Ngác đã không dấu giếm chi cả những gì đã xảy ra trong thời gian ông Hồ tại hang Pác Bó vào đầu thập niên 40. Bà kể hằng ngày Ngác đến ‘học tập’ với ông Hồ ròng rã cả năm. Hồ căn dặn Ngác không nên gọi Hồ bằng ‘Bác’ mà hãy gọi là ‘Chú Thu’ và xưng ‘Cháu’. Thế thì sau đó chú cháu tiếp tục học tập…
Khi ông Hồ cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà ông Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác, lại được cất chức làm Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng…. Ông Hồ yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. ‘Chú Thu’‘Cháu Trưng’ cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giảTrần Khuê, Thép Mới
Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang 48) rằng sau 20 năm ngày rời Pác Bó, ông Hồ trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, ông Hồ tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm, người mà trước đây ông Hồ đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật… Tác giả còn nhấn mạnh một trong các cháu đã trở thành ‘thanh niên tuấn tú’ góp phần xây dựng đất nước.
Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo…” Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.
Để chứng minh cho mối quan hệ của bà Ngác với ông Hồ tôi xin được trình bày những tài liệu sau đây.
Đầu tiên, trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker – một người thiên tả, trang 575, viết:“In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP” (Vietnamese Communist Party- 14).
Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho’s servant after the latter’s return to Vietnam during the early 1940s…”
Tạm Dịch: “Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.”
Chúng ta cũng biết ông Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942. Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, website của “Đảng CSVN” đã xóa hoàn toàn tiểu sử của ông Nông Đức Mạnh trước đó ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị.
Vấn đề đặt ra là tại sao khi có cuốn sách của Duiker và Time phỏng vấn ông Mạnh thì tiểu sử phải bị xóa bỏ trong khi ông Mạnh là người đứng đầu đảng, việc minh bạch cha mẹ mình trên website của chính phủ có gì sai? Đó chính là việc minh chứng cho ông Mạnh chinh là con của bà Ngác và ông Hồ bị cố tình giấu giếm đi.
Thứ hai, cũng liên quan đến sự việc ông Hồ có con với và Ngạc và có con trai, tác giả người Nga, Mikhail Vasaep cũng đề cập tới trong cuốn sách của mình đã được tôi giới thiệu ở phần trên trong trang 372 “Cũng có những nguồn tin đáng tin cậy từ KGB cho biết có một người con trai của Hồ Chí Minh với người phụ nữ tên Nông Thị Trưng được nuôi nấng bời một gia đình người dân tộc thiểu số tại Cao Bằng…
Như vậy có thể khẳng định thêm thông tin ông Hồ có con với bà Nông Thi Trưng (Ngác) là hoàn toàn có thật. Và người con đó chính là ông Mạnh với những thông tin được nêu ra từ W. Duiker.
Thứ ba, khi đề cập đến vấn đề quan hệ với bà Nông Thi Trưng thì tác giả Constatin Kostadinovđã giới thiệu ở trên trong cuốn “Những người con của lãnh tụ” xuất bản năm 1984 tại Ba Lan có viết tại trang 92 “Thật ra trong một nghiên cứu cho thấy chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một mà có những hai con trai nhưng đến nay chưa biết số phận chính trị có giống như người con mang tên Nguyễn Tất Trung hay không…”
Chúng ta nên nhớ vào thời điểm cuốn sách của ông Kostadinov ấn hành thì ông Mạnh chưa có những dấu ấn trên chính trường (năm 1984) nên nhận xét của ông Kostadinov rõ ràng là hợp lý. Nhưng cũng cho thấy về đứa con của ông Hồ không chỉ một mà là 2 con trai.
Thứ tư, chính tác giả Hà Cẩn trong cuốn sách của mình đã được giới thiệu ở trên cũng từng viết tại trang 135 “Bi kịch tình ái của Hồ Chủ Tịch không chỉ dừng lại ở những bà vợ không được thừa nhận mà còn kể cả 2 người con trai của Chủ Tịch. …”
Đến đây ta có thể khẳng định tác giả Hà Cẩn đã ám chỉ về Nguyễn Tất Trung và ông Nông Đức Mạnh là con của ông Hồ Chí Minh. Nhưng dù cho có là ai đi nữa thì tác giả cũng khẳng định ông Hồ có nhiều con và có nhiều vợ không được thừa nhận.
Kết luận: Qua 4 dẫn chứng trên chúng ta có thể thây được ông Hồ và bà Ngác có một mối quan hệ già nhân ngãi non vợ chồng và có con trai là sự thật. Và sản phẩm đó chính là ông Nông Đức Mạnh
Vài mối tình ngoài lề cần tìm hiểu thêm 
Ngoài 5 người phụ nữ để lại dấu ấn bằng con cái và thảm kịch, có hôn thú như nêu trên thì còn có nhiều người phụ nữ từng là người tình của ông Hồ hay được ông ta thích thú. Điều này cho thấy ông ta không hề “hết mình lo cho dân tộc” như đảng cộng sản và ông ta tự bốc thơm mình. Và quan trọng hơn một người có nhiều vợ lại có nhiều người tình như vậy khó có thể là“vị thánh” được. Những câu chuyện về Huỳnh Thị Thanh Xuân, Phương Mai hay vợ ôngChu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu… chưa có nhiều tài liệu kiểm chứng nên tôi không nêu ra ở đây. Trên nguyên tắc tôn trọng sự thật và không đi sâu vào bôi nhọ cá nhân nên tôi chỉ nêu lên những gì đã có bằng chứng khách quan nhất.
Ngoài ra bạn đọc cũng nên tìm hiểu cho mình về sự thật về những người tình của ông Hồ sau đây khi đã có những nguồn tin khách quan nói đến.
Một trong những người phụ nữ Tây Phương có cô Marie Bière. Thành Tín tức Bùi Tín ghi trong “Về Ba Ông Thánh”, xuất bản 5/1995, (trang 149): “Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Biere nào đó…” Cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham khảo của Sophia Judge, một nữ sử học gia Hoa Kỳ rành tiếng Việt đã bỏ nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về ông Hồ, nhất là 2 năm tại Moscow… Ông Hồ có người tình tên Vera Vasilieva. Vera có con gái riêng, và cô này kể cho bà Sophia nghe. “Về Ba Ông Thánh”, (trang 151): “Vào dịp đại hội 7 của quốc tế cộng sản, cô ta mới 10 tuổi, nhưng còn nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ lại trên ghế dài vào năm 1934…”
Theo tài liệu của bà Sophia Judge, Bùi Tín, cùng sách trên (trang 153): “Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Ông còn để lại khi về nước một va-ly áo quần ông sắm cho vợ ông toàn là loại sang, cô bé Nga này lấy ra dùng bao nhiêu năm mới hết!” Hồ Chí Minh còn ‘yêu’ cả vợ của Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu khi đang dan díu với người phụ nữ Nga Vera này.
Ngoài ra, trong “Ho Chi Minh” tác giả William Duiker có ghi một phụ nữ trẻ khác tên Lý Sâm, lúc đó là vợ của Hồ Tùng Mậu, đồng chí của ông Hồ: Lý Sâm và HCM đã bị cảnh sát Hongkong bắt tại một phòng hotel khi hai người đang trong phòng ngủ, lúc 2 giờ sáng ngày 6, tháng 6, 1931.”
Sau khi bị tù tại Hongkong, Hồ có tên mới là Tống Văn Sơ. Sau khi rời khỏi HongKong HCM đổi nhiều tên họ khác nhau để tiếp tục hoạt động. Có những nguồn tin cho biết khi ông trở về lại Nga, đàn anh cũng đã tìm cho ông Hồ một người phụ nữ Nga để làm vợ… 
Trong cuốn “Con Rồng Việt Nam” tác giả cựu hoàng Bảo Đại ghi “Hồ Chí Minh có một người vợ Ngacó chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến”(trang 205). Sở dĩ cựu hoàng Bảo Đại biết chuyện này nhờ những dịp đi ‘công tác’ với Võ Nguyên Giáp vào 1945. Ông Giáp đã kể lại một số sự thật về HCM, lúc này Bảo Đại mới biết rõ HCM là tên quốc tế cộng sản nên tìm đường lưu vong.
Kết luận chung: Như vậy qua 6 phần chúng ta thấy ông Hồ có rất nhiều vợ, người tình và con cái chứ không phải là một “vị Thánh” như ông ta và đảng cộng sản tung hô cả đời không vợ con mà chỉ lo cho dân tộc. Đây chính là một trong những hành động nói lên sự xấu xa của người cha không nhận con, người chồng không nhận vợ, người lãnh tụ nói dối dân tộc về mình.
B. Bản chất của sự việc?
Có thể nói chuyện tình ái và chuyện có nhiều vợ con cũng chẳng là chuyện to tát. Ngày nay việc sống như vậy càng dễ được chấp nhận hơn. Các vị lãnh tụ có vợ nọ con kia là điều không quá xa lạ nhưng họ dám thừa nhận hoặc được pháp luật các nước đó phanh phui ra. Nhưng điều này với ông Hồ và đảng cộng sản lại khác. Xin được nói rõ ở đây.
Thứ nhất, đối với cá nhân ông Hồ khi ông ta có vợ con mà ông ta không chịu nhận họ, thậm chí còn làm ngơ với cái chết của họ như trường hợp bà Xuân là một tội ác. Như vậy ông ta thật là một người cha và người chồng xấu.
Thứ hai, đối với dân tộc ông Hồ cũng là kẻ lừa dối khi ông ta sinh thời không chịu công khai về vợ con mình mà để yên cho đảng cộng sản tự tung, tự tác bốc thơm ông ta không có vợ con, chỉ dành hết tâm huyết cho dân tộc và đất nước.
Thứ ba, chính đảng cộng sản cũng phải chịu trách nhiệm với ông Hồ Chí Minh về việc cùng ông ta bưng bít sự thật về những lý lịch bất minh của ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Tất Trung. Nhất là đối với một người từng giữ chức Tổng bí thư như ông Mạnh là vi phạm pháp luật. Hãy nhìn sang Mỹ để thấy ông Obama công khai lý lịch của mình từ cái giấy khai sinh cho thấy đảng cộng sản không tôn trọng pháp luật và coi thường nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, chúng ta có thể thấy sự việc ông Hồ không công khai vợ con cho thấy trong chế độ cộng sản luôn luôn tồn tại khái niệm dối lừa mà đến cả một chuyện cỏn con như chuyện có vợ con cũng bị bưng bít sự thật. Đó là sự tồi tệ của chính thể cộng sản cần phải dẹp bỏ.
Vậy bản chất sự việc không thừa nhận vợ con của ông Hồ và hành động bưng bít của đảng cộng sản ở đây nói lên điều gì? Đó chính là muốn tiếp tục lừa dối dân tộc về một con người thánh thiện giả tạo như ông Hồ để tiếp tục giữ quyền độc tài đối với dân tộc Việt Nam. Tôi đã gặp nhiều người cho đến nay vẫn bị nhồi sọ với luận điệu “Cả đời Bác không vợ con chỉ lo cho nhân dân…” Bài viết này của tôi chỉ có mục đích nên lên sự thật về chuyện ông Hồ có nhiều vợ con mà ông ta không thừa nhận. Chính ông ta và đảng cộng sản đã lợi dụng điều này để lừa dối dân tộc.
 HCM được cộng sản đem vào chùa để thờ, và ngồi chung với phật. (Chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Đại Nam,…)
)
Hoàn thiện và chỉnh sửa 01/09/2012
______________________________________
P/S:
Kính thưa Dân Làm Báo và bạn đọc!
Đây là bài viết cuối cùng trong loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ  của tôi về ông Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn tới Dân Làm Báo đã nỗ lực hết mình trong việc cho đăng tải những bài viết của tôi nhằm trả lại sự thật cho lịch sử đang bị đảng cộng sản bưng bít, bẻ cong để phục vụ cho mục đích độc tài cai trị của mình. Nỗ lực của Dân Làm báo hết sức đáng ghi nhận như một cây cầu kết nối tác giả và bạn đọc đến những sự thật không thể chối bỏ về nhân vật gian ác, bán nước và giết người hàng loạt… như ông Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, riêng cá nhân tôi trong thời gian viết bài đã được sự ủng hộ của rất nhiều bạn đọc mà tôi không thể nhớ hết tên khi đọc comment. Những bạn đọc đó là những độc giả thông minh nhất mà chúng ta đang cần để góp ý cho tôi nói riêng hoặc giúp cho những ai bị nhồi sọ sẽ có ngày tỉnh ra khỏi u mê. Sự đóng góp của bạn đọc là vô giá với những bài viết của tôi. Nếu không có bạn đọc ủng hộ, góp ý thì những bài viết của tôi không đem lại những thành công nhất định về nội dung và dư luận như hiện nay. Chính tôi đôi khi đã tìm thêm được nhiều gợi ý cho những bài sau này khi ở các bài viết trước được nhiều tác giả bổ sung tu liệu.
Xin chân thành cảm ơn bạn đọc ủng hộ nói chung và đặc biệt là những người có đóng góp nhiều nhất cho bài viết của tôi như: Loạt bài của tác giả Lê Nguyên. Bài đóng góp của tác giả Truyền Tấn, Bác Dân Nam với những bài viết và link hay, tác giả Lite_Breeze với những kiến thức về Trung cộng sâu rộng, còm sĩ 1NXX với những đóng góp thông tin phản biện giàu sức nặng và những thông tin pháp lý để tôi tiến hành việc chuẩn bị đưa tội ác Hồ Chí Minh ra công luận quốc tế… Ngoài ra là rất, rất nhiều còm sĩ mà tôi chưa biết mặt, chưa gặp, chưa biết tên thật nhưng đã có những đóng góp tích cực cho loạt bài viết của tôi thêm hoàn thiện: Trực ngôn, BN, PHO, IlluminatiMINDCONTROL, HS-TS-VN, xoathantuong, bác 2 què 1 công dân xứ @, Ju Mong, VN buồn, Hàn sĩ, tieu phu dat quang, MỘT BẠN ĐỌC, Người cảm nhận, Lớp 13, Changkho_thuychung12345632, Người Trẻ Sài Gòn, Lê cửu Long, Danhaiphong, Vitcondaudat, Sinh năm 1980, YVN, Con cháu bác Thiệu, SongBachDang, titanic, em16, SuthatLSVN, Hạ trùng nguyên, Thêm chữ cho Nghĩa, Dân Viêt, Dân Việt Nam, Usa, HK, HKK, Rebecca TSNV, 9xsaigon, Hung Le, Thu Trâm, Dân Chủ, Người Dân, saigon, HT Thich su that… và rất, rất nhiều còm sĩ tôi không thể nhớ và liệt kê ra hết được.
Trong thời gian tới, tôi xin giành thời gian để viết một số bài về các lãnh tụ cộng sản khác như Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… để cho nhân dân ta thấy được bản chất thật sự của đảng cộng sản Việt Nam. Ngoài ra mục đích lớn nhất của tôi là chuẩn bị đưa Hồ Chí Minh và tội ác của ông ta ra Liên Hiệp Quốc và công luận quốc tế.
Ngay sau bài này, tôi sẽ gửi tới bạn đọc một bài “CÁO TRẠNG” tội ác của đảng cộng sản và ông Hồ để bạn đọc góp ý trước khi tôi đi đến các bước tiếp theo cùng tôi đứng lên trả lại sự thật cho nhân dân Việt Nam. Khi có kế hoạch cụ thể tôi xin cùng người đại diện của mình trình bày trên Dân Làm Báo để bạn đọc góp ý, giúp đỡ và ủng hộ.
Xin chân thành cảm ơn Dân Làm Báo và bạn đọc!
Tin về Đặng Chí Hùng 

16 bình luận to “Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất”

  1. […] THƯ VIỆN CÁC BÀI ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU NHẤT […]

  2. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  3. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  4. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  5. […] THƯ VIỆN CÁC BÀI ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU NHẤT […]

  6. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  7. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  8. […] THƯ VIỆN CÁC BÀI ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU NHẤT […]

  9. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  10. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  11. […] THƯ VIỆN CÁC BÀI ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU NHẤT […]

  12. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  13. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  14. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  15. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

  16. […] Thư Viện các bài được đọc nhiều nhất […]

Bạn cứ phịa ra một email hoặc tên nào đó để viết ý kiến. Comment của tất cả các bạn đọc sẽ được hiện ra.

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.