Có Ai Thích Được Giải Phóng đâu !!!???
Hoàng Dược Sư – X.Cafe.VN
Mon, 05/02/2011 – 02:25
http://www.x-cafevn.org/node/2097
Vậy là đúng 36 năm, kể từ ngày mất miền Nam thân yêu. Mất cả tên Saigon thân thương, mất cả tên những con đường với muôn vàn kỷ niệm. Và rồi còn bao nhiêu thứ mất mát đáng sợ hơn.
Ngày ấy, ngày 30/4/75, ngày mà cả miền Nam sống trong sợ hãi. Những chiếc xe tăng T54 ngênh ngang tiến vào thành phố, nghiến nát những con đường, những bãi cỏ xanh tươi mơn mởn. Ngày ấy dân miền Nam sợ xanh mặt, họ bồng bế nhau chạy trốn loạn lạc. Họ có muốn các anh vào giải phóng đâu!!
Ngày 30/4 là một ngày định mệnh đau buồn cho nước VN. Ngày đánh dấu cho một kiếp ô nhục, ngày mà đánh dấu những tang thương, mất mát, đoạ đày sau này cho con dân VN, ngày tiên đoán cho kiếp bị đô hộ, nô lệ cho giặc Tàu gần kề.
Chúng tôi có mong đợi các anh đến giải phóng đâu. Vậy các anh đến làm gì. Chúng tôi đang sống trong thanh bình, thịnh vượng thì có cần gì đến giải phóng. Các anh mập mờ đánh lận con đen. Các anh dùng mỹ từ giải phóng để che giấu sự ăn cướp trắng trợn và dã man cuả các anh. Nếu các anh thật sự giải phóng chúng tôi thì tại sao chúng tôi lại bồng bế nhau chạy trốn. Chúng tôi chạy bán sống bán chết, chúng tôi bỏ cuả chạy lấy người. Vì sao? Vì chúng tôi ghê tởm các anh.
Các anh còn nhớ sau hiệp định Geneve 1954, tại sao cả triệu người bỏ ruộng vườn, bỏ mồ mả ông bà, bỏ tài sản mà trốn chạy các anh. Vì người ta đã quá biết bộ mặt đểu giả, giả nhân giả nghiã cuả các anh. Nếu các anh không ngăn cản để cho đồng bào miền Bắc tự do di cư vào miền Nam, thì số người di cư phải tới hơn 5 triệu người là ít. Những cảnh chia lià vợ chồng, con cái, chết chóc, thất lạc…là do ai tạo ra?
Sau ngày 30/4, khi nhà văn Dương thu Hương, lúc ấy còn là bộ đội, vào miền Nam thì quá ngỡ ngàng đến té ngửa ra, vì bị lường gạt bao nhiêu năm. Miền Nam văn minh, trù phú và đầy ắp tình người. Bà ta đã ngồi bệt xuống lề đường mà khóc, vì sự thật phũ phàng. Đó chính là tâm sự cuả bà đã được in thành sách. Các anh mới chính là những người cần được giải phóng!!!
Các anh reo vui trong chiến thắng, các anh ca hát “chưa thấy hôm nào đẹp như hôm nay, non nước tưng bừng lòng ta mê say…” Các anh hứa hẹn mang thanh bình cho đất nước.
Thế rồi các anh đánh tư sản, các anh vơ vét vàng bạc, tài sản cuả dân chúng. Các xí nghiệp công xưởng lớn nhỏ thì các anh tịch thu, phá hủy, cả nền công nghiệp cuả miền Nam bị phá sản. Mấy trăm ngàn quân nhân cán chính thì các anh trả thù, cho họ tù đày, với mỹ từ học tập cải tạo. Các anh tạo ra cảnh thê lương chia lià, vợ xa chồng, con mất cha, mẹ mất con.
Như vậy các anh còn chưa hài lòng, các anh còn đì con cái họ bằng cách phân biệt lý lịch ngụy quan, ngụy quyền…khi họ thi tốt nghiêp, đi học, hay xin việc làm. Chưa hết, các anh còn kiểm soát tự do cuả người dân bằng những công an khu vực, giấy đi đường, bằng những tem phiếu, bằng những bobo, khoai, sắn. Người dân co cụm lại vì sợ hãi, vì đói rách, vì nghi kỵ lẫn nhau, vợ tố chồng, con tố cha…đưa đến một sự suy đồi về đạo đức trầm trọng. Cuối cùng các anh lại đổi tiền, để thừa dịp cướp bóc công khai giữa ban ngày.
36 năm rồi, các anh đã làm gì cho đất nước, hay chỉ thêm hoang tàn đổ nát, nghèo khổ và thất vọng. Các anh đã biến VN thành nước lạc hậu và nghèo nhất thế giới, phải ngửa tay đi xin khắp nơi trên thế giới. Các anh đã bán đất bán biển cuả tiền nhân tổ tiên cho Tàu Cộng, các anh nịnh nọt, đút lót cho kẻ thù, các anh hèn hạ gọi kẻ thù từng đô hộ mình cả ngàn năm là quan thầy, là mẫu quốc. Các anh còn biết xấu hổ hay không?
Các anh sợ mất Đảng, mất chỗ đứng mà không sợ mất nước. 36 năm rồi các anh vẫn còn nguyền ruả Mỹ,Ngụy. Các anh chửi họ là bọn Nguỵ quân, ngụy quyền, bọn Diệm Nhu, Thiệu kỳ…là bọn phản động, tay sai cho ngoại bang…chỉ biết ăn canh thừa, cá cặn cuả đế quốc…Các anh, cũng như các tờ báo lề phải không ngừng đả kích, chửi bới những người mà các anh gọi là phản động, là tàn dư Mỹ ngụy..Như vậy làm sao các anh đòi hoà hợp hoà giải dân tộc, xoá bỏ hận thù để xây dựng đất nước được. Ai sẽ tin lời các anh, các anh muốn hoà hợp, hoà giải mà cứ chửi cha, chửi tổ tiên người ra, thì hoà giải cái nỗi gì.
Ngày 30/4 mỗi năm các anh tổ chức rầm rộ ăn mừng chiến thắng, thì hoà hợp ở đâu? Các anh đâu có thật sự muốn hoà giải. Các anh chỉ thích tiền và đô la cuả họ mà thôi. Các anh sợ 3 triệu Việt kiều Hải ngoại tạo phản, tạo áp lực với thế giới, nên phải vuốt ve, nịnh nọt Việt Kiều như khúc ruột ngàn dặm, để mỗi năm đám phản động đó gởi về cả chục tỷ mỹ kim cho các anh. Các anh hô hào, cổ võ cho Việt kiều về VN làm ăn, quê hương là chùm khế ngọt…Tất cả chỉ là dối trá và lường gạt mà thôi.
Thật vô phước cho đất nước VN. Mấy ngàn năm tổ tiên dựng nước thì tới thời CS là thời mạt kiếp. Tội lớn nhất cuả Hồ chí Minh là mang cái học thuyết CS ngoại lai, láo lếu, phi lý mất tính người vào VN, để rồi con dân VN chịu muôn vàn đau khổ.
Ôi đã 36 năm rồi, quê hương tôi còn đọa dày cho tới bao giờ!!?? Biết đến bao giờ các bạn thanh niên, các trí thức còn u mê, mê man bất tỉnh mở mắt ra nhìn vào sự thật…Giờ phút này có bao nhiêu triệu người đang ăn mừng ngày 30/4 tưng bừng náo nhiệt, và cũng có bao nhiêu người ngậm ngùi làm lễ giỗ cho vợ chồng,cha mẹ, hay anh em cuả họ…Như vậy có nên hoà hợp, hoà giải hay không? Tôi tin rằng 3 triệu người Việt lưu vong sẽ sẵn lòng độ lượng và tha thứ cho tất cả những nỗi nhục nhằn, cay đắng mà họ đã gánh chịu vì CS, nhưng họ không bao giờ quên. Họ nhớ để ôn cố tri tân, để không đi vào vết xe lịch sử cũ.
Hoàng dược Sư
30/4/2011.
Trần Hoàng điểm lại một số ý kiến về Chiến Tranh Việt Nam
1./ Nhiều sách báo và tài liệu gần đây cho thấy rằng Tổng thống Nixon và phụ tá Kissinger đã ép buộc VNCH ký kết hiệp định Paris 27-1-1973 kết quả là đã đưa tới sụp đổ miền Nam.
Nay nhiều bí mật khác nữa đã được tiết lộ, việc Mỹ cắt giảm quân viện cho miền Nam mới là nguyên nhân chính. Bản tin Việt Ngữ đài VOA ngày 2-7-2007 cho biết cựu Bộ trưởng quốc phòng Laird, thời Nixon lên tiếng cho biết VNCH thua trận vì bị Mỹ cắt viện trợ.
Cụ thể, tiền quân viện của Mỹ dành cho miền Nam đã giảm dần từ sau năm 1973:
– Tài khóa 1973: hai tỷ mốt (2,1 tỷ)
– Tài khóa 1974: một tỷ tư (1,4 tỷ), giảm 33% so với năm trước
– Tài khóa 1975: bẩy trăm triệu (0,7 tỷ), giảm 66% so với năm 1973.
Trong thời gian nầy, cuộc khủng hoảng dầu lửa đã làm giá xăng dầu tăng lên gấp bốn lần. Bởi vậy ngân khoản năm 1975 ấy chỉ có giá trị mãi lực trên dưới 350 triệu. Khoản quân viện 350 triệu vào năm 1975 đã thua kém quân viện cho miền Nam hồi năm 1963 là 384 triệu đô la.
Đại tướng Cao Văn Viên nói: Vào tháng 1 năm 1975, quân đội miền Nam chỉ còn đủ số đạn được để đánh nhau trong 3 tuần. TT Nguyễn văn Thiệu lên truyền hình nói: Vì hết thuốc men và dụng cụ y tế, thậm chí ở các bệnh viện, các bác sĩ và y tá quân đội phải giặt lại các băng bông y tế cho sạch máu, để băng lại cho những chiến sĩ bị thương. Về đạn dược, mỗi khẩu súng đại bác chỉ được bắn mỗi ngày 2 quả.
Trong khi đó, CSVN đã tiết lộ trong một buổi hội thảo qui mô tại Sài Gòn ngày 14-4 và 15-4-2006 (theo BBC.com) trong giai đoạn 1961-1964 CS quốc tế viện trợ cho miền Bắc 70,295 tấn hàng quân sự. Và trong giai đoạn 1965-1975, viện trợ ấy đã tăng lên 724,512 tấn hàng hóa quân sự, tức là viện trợ gia tăng gấp hơn 10 lần.
Trong khi đó, Trung Quốc và Liên Xô tranh nhau tăng viện trợ để dành ảnh hưởng của CSVN. Trung Quốc viện trợ 2 tỷ đô la mỗi năm, và Liên Xô viện trợ còn hơn thế nữa; tổng viện trợ của Trung Quốc dành cho Miền Bắc là 14 tỷ.
So sánh viện trợ quân sự cho miền Bắc và miền Nam ta có thể đoán đã có sự xếp đặt ngầm của các siêu cường.
2./ Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính đã ghi lại nhận xét của ông Ngô Đình Nhu từ đầu thập niên 60 về chiến lược toàn cầu của Mỹ như sau: ‘Nếu tụi nó (Mỹ) nhảy vô để chiến thắng Cộng Sản như ở Triều Tiên, bất kể một cuộc can thiệp của Tầu hay… đệ tam thế chiến, thì mình cũng để cho tụi nó thử sức với Cộng sản xem sao, chứ ở đây mục đích của tụi nó là tìm một thế ‘sống chung nào đó’ với Cộng Sản, thì đánh để làm chi, rốt cuộc cũng chỉ như rứa? Con đường của Hoa Thịnh Đốn muốn đi tới là Bắc Kinh, mình chỉ là vật tế thần ‘cục kê’ của tụi nó’. Để rồi tướng Đính kết luận: ‘Nhận định đó đến thập niên 1970 đã trở thành sự thật và khi Nixon bắt tay được với Mao Trạch Đông, thì tiền đồn chống Cộng của VNCH đã hết ý nghĩa, và do đó Hoa Thịnh Đốn phải thu xếp để chấm dứt một cuộc chiến tranh không còn cần thiết mặc cho nền hoà bình này đã làm sỉ nhục tính cách siêu cường của Mỹ và đẩy miền Nam vào địa ngục của Cộng Sản Hà Nội” Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 635, của tác giả Nguyễn Đức Phương.
Nguyễn Đức Phương kết luận.
“Như vậy cả hai miền Nam, bắc Việt Nam đều không nhìn thấy được chính sách ngoại giao của Mỹ từ đầu thập niên 70 để tiếp tục cuộc chém giết. Mùa hè năm 1972 không cần thiết phải là một mùa hè rực lửa. Những trận đánh đẫm máu tại Cửa Việt, tại Sa Huỳnh đã hầu như vô nghĩa. Hiệp định Ba lê chỉ là một biên lai để khách hành nhận lại tù binh và đoạn chiến. Số phận của VNCH đã được định đoạt từ lâu và cũng không phải tại chiến trường.” CTVNTT trang 635, 636.
Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng nói.
“ Kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Trung Quốc thì giá trị của Miền Nam để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’ đã không còn là bao nhiêu trong những tính toán của Mỹ về hơn thiệt (cost-benefits). Dần dần, Miền Nam đã hết vai trò một tiền đồn của thế giới Tự Do. Và như vậy, vấn đề còn lại đối với Mỹ thì chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít bị tổn hại về uy tín là được rồi” Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 456, 457.
Những người hoạch định chiến lược Mỹ không phải là những nhà quân sự mà là các chính trị gia, họ họach định với thái độ do dự và lo sợ nên các kế hoạch công phá địch đã bị vô hiệu. Nhiều người cũng đặt giả thuyết cho rằng các nhà chính trị Mỹ đã bị tư bản chi phối cố tình kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, giả thuyết đó dựa trên sự nghi ngờ người Mỹ giả vờ không đánh thắng được Việt Cộng để cù cưa kéo dài chiến tranh. Sự nghi ngờ này đã đưa tới những cuộc biểu tình chống chiến tranh tại Mỹ cũng như tại Việt Nam năm 1966 tại miền Trung mà hậu quả chỉ là có lợi cho CS.
Cuối năm 1969, cựu Tư Lệnh Wesmoreland tại Mỹ nói nếu Mỹ tiếp tục oanh tạc thì đã thắng rồi, Bắc Việt lợi dụng hoà đàm yêu cầu Mỹ ngưng oanh tạc hơn một năm nay để chuyển quân vào đánh tiếp. Ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng miền Nam sụp đổ vì đã quá phụ thuộc vào Mỹ từ Quốc phòng, kinh tế, giao thông, ăn, ở.. Ta cũng quá ỷ lại vào Mỹ, lúc nào cũng tin tưởng vào sự giúp đỡ của người bạn Đồng Minh .
Sự thực đây không phải là lần đầu tiên người Mỹ phản bội đồng minh , cái trò mua bán đổi chác, bỏ rơi đàn em đã có từ Thế Chiến Thứ hai cách đây đã hơn 60 năm.
Tháng 4-1945 , Tướng Paton Mỹ đánh Đức Quốc Xã tiến quân đến sát biên thùy Tiệp Khắc sắp vào giải phóng họ thì được lệnh phải dừng lại ngay lập tức vì Tiệp đã được nhường cho Nga. Sau này những bí mật đã được tiết lộ, sở dĩ Mỹ nhường Đông Âu cho Nga vì họ có nhờ Nga phụ giúp một tay đánh quân Nhật tại Á Châu. Họ có cho nghiên cứu làm bom nguyên tử nhưng không hy vọng gì lắm.
Cuối năm 1944, mặt trận Âu châu đã gần kết thúc nhưng tại Á châu, Nhật vẫn còn hơn 5 triệu quân đóng rải rác tại các nước Đông Nam Á, họ lại chiến đấu dai dẳng không chịu đầu hàng. Người Mỹ trù tính phải đánh một năm rưỡi hoặc hai năm mới xong, sẽ phải tốn nhiều xương máu, sinh mạng của tư bản quí như vàng. Muốn tiết kiệm xương máu nhân dân, họ chỉ còn cách đem Đông Âu ra đánh đổi và Staline nhận lời ngay vì sinh mạng dân Xã hội chủ nghĩa lại rẻ như bèo. Nhà văn Lỗ Ma Ni, Constantin Virgil Gheorghiu trong cuốn truyện Les Sacrifíés du Danube đã diễn tả nỗi đau đớn uất hận của 150 triệu người Đông Âu tan gia bại sản đã bị Hoa Kỳ bán đứng cho CS để cứu vớt nền văn minh Tây Âu.
Một thí dụ nữa về sự phản bội đồng minh mà người Mỹ từng làm. Cuối năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất Mãn Châu, ngày 7-10-1948 Hồng quân đại thắng ở Hoa Bắc, hai hôm sau Tưởng Giới thạch xin Mỹ viện trợ để cứu nguy tình thế quá hiểm nghèo nhưng không được đáp ứng. Đầu tháng 12-1948 Tưởng phu nhân bà Tống Mỹ Linh đích thân sang Mỹ cầu viện nhưng họ lờ đi. Mỹ bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc không thương tiếc vì trước đây họ giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật, Tưởng đã cầm chân được một số lớn quân Nhật, nay đế quốc Nhật tan tành thành tro bụi, Tưởng không còn là đồng minh cần thiết nữa.
Hoa Kỳ bỏ rơi Trung Hoa mang lại hậu quả tai hại cho cả Á Châu, Trung Cộng nhuộm đỏ nước Tầu rồi trở thành mối đe dọa cho Hoa Kỳ, cho nền hoà bình thế giới và bây giờ vẫn còn đe dọa, cái giá mà Hoa kỳ phải trả cho sự bỏ rơi này muôn đời không bao giờ hết.
Và để rồi gần 30 năm sau, tháng tư 1975 họ lại dở cái trò vắt chanh bỏ vỏ ấy tại Việt Nam.
(Gần đây nhất là vào năm 1979, người đồng minh Mỹ đã phản bội Đài Loan. Giới chính trị gia và tư bản Mỹ hy vọng rằng họ sẽ nhiều quyền lợi kinh tế hơn một khi họ giao thiệp được với Trung Quốc, Năm 1979, Mỹ đã đóng cửa tòa đại sứ và ngưng bang giao với Đài Loan, không công nhận Đài Loan trên chính trường quốc tế, rồi đẩy Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc. Cùng lúc ấy Mỹ quay sang công nhận và hổ trợ cho Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc).
Người Mỹ có được lợi lộc gì trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ toàn là thiệt hại, dĩ nhiên có. Trước mắt họ đã ngăn chận được cuộc chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung Cộng tại Á Châu, sự phản ứng quyết liệt đã khiến khối Cộng sản chùn bước. Mỹ đã bắt tay hoà hoãn được với Trung Cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi sự đe dọa an ninh cho đất nước.
Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ” cho biết Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kimtrong suốt cuộc chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan Anh nói trong Trận Chiến Mùa Hè năm 1972: “QVNCH đã cầm chân và tiêu diệt phần lớn năng lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào cuộc chiến tranh. Họ đã tạo thời giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh tế và củng cố hàng ngũ. Kết cuộc họ đã bị trói tay để đưa đến thảm trạng 30 tháng 4 năm 1975”
Người Mỹ nói họ thiệt hại 300 tỷ Mỹ kim, không phải rằng họ cho miền Nam VN số tiền khổng lồ ấy, mà tiền chiến phí cho chiến tranh VN là một chi phí tổng gộp bao gồm cả việc trả lương lính Mỹ, nhân viên quốc phòng Mỹ, cố vấn Mỹ, công nhân chế tạo vũ khí người Mỹ, chi phí di chuyển… những khoản tiền ấy lưu hành và chi tiêu trong phạm vi kinh tế, lãnh thổ nước Mỵ hơn là ra ngoại quốc.
Chính phủ miền Nam VN chỉ nhận được chừng 2 tỉ đô la mỗi năm. Còn vũ khí thì tính cho đến năm 1971, chỉ trừ 3 sư đoàn TQLC, sư đoàn Nhảy Dù, các liên đoàn Biệt Động Quân là được trang bị súng tự động AR 15 hoặc M 16.
Hơn 10 sư đoàn còn lại chỉ được trang bị súng carbin M1, tiểu liên Thompson, súng trường là các vũ khí thời thế chiến thứ 2 hoặc của thế chiến thứ nhất còn sót lại trong kho, hoặc là các vũ khí mà quân đội Mỹ trang bị mới cho các đơn vị của họ, thải ra và cho quân đội miền miền Nam.
Nước Mỹ khóc lóc thảm thương cho 58 ngàn người lính của họ đã chết tại VN, nhưng họ không hề đoái thương tới hàng mấy triệu người Việt Nam và Đông Dương chết vì bị các thế lực siêu cường xúi cho người ta giết lẫn nhau.
{VN trả lương 7 triệu công chức, 8,8 triệu người có công với cách . (8,8 triệu người có công với cách mạng là các gia đình có con đi bộ đội vào Nam chiến đấu và đã chết trong chiến tranh VN 1954-1975 chiếm đa số, một số ít là những gia đình có con em chết trong chiến tranh 1979 với Kampuchia và Trung Cộng. Chí ít là có hơn 4 triệu bộ đội VN đã chết vì đảng CSVN đã gây ra 3 cuộc chiến tranh].
Người Mỹ cũng không hề thương tiếc cho 4 triệu người dân Miên vô tội đã bị Khmer đỏ tàn sát vì Mỹ đã bỏ rơi đồng minh một cách tàn nhẫn vào năm 1975.
Ông Nguyễn Tiến Hưng nói Hoa Kỳ bỏ Việt Nam vì quyền lợi của họ tại đây không còn nữa.
nguồn: Cuộc Chiến Việt Nam Dưới Nhiều Khía Cạnh của Trọng Đạt
(còn cập nhật thêm)