Hiệp định Paris 1973: CS càng muốn quên thì ta càng phải nhắc ( Nguyễn Ngọc Bích) và Hiệp Định Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris! Hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau. Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được bạch hóa trong thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris 1973.
Bàn luận xung quanh Hiệp định Paris
Trọng Đạt
28-01-2015
Sau bốn năm đàm phán, Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27/1/1973 tại Paris giữa Hoa Kỳ, Cộng Sản Hà Nội, Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời (tức Việt Cộng). Hiệp định dài khoảng 10 trang gồm:
Chương I- Chủ quyền, thống nhất; II- Chấm dứt chiến sự, rút quân; III -Trao trả tù binh; IV- Hội đồng đồng hòa giải dân tộc; V- Thống nhất đất nước hai miền, không bên nào được thôn tính bên nào; VI- Ủy ban liên hợp quân sự; VII- Đối với Miên, Lào; VIII- Quan hệ VNDCCH và Mỹ, IX Những điều khoản khác (Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập từ trang 944 tới 954)
Trên thực tế chỉ có một số điểm chính hai bên đã thương thuyết như sau.
– Mỹ rút quân
– Trao trả tù binh
– Lật đổ chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
– Việc thành lập chính phủ Liên hiệp.
– Lập Hội đồng hòa giải dân tộc.
-Bắc Việt rút khỏi miền nam VN
Hiệp định ký kết ngày 27/1 cho thấy Mỹ rút quân khỏi Đông Dương hoàn toàn, Hà Nội trả tù binh cho Mỹ và chịu nhượng bộ ba điểm chính mà họ đã đòi hỏi suốt gần 4 năm: không đòi loại bỏ chính phủ Nguyễn văn Thiệu, không lập chính phủ Liên hiệp, Hội đồng hòa giải dân tộc chỉ có hình thức, trên thực tế không được thiết lập. Hoa Kỳ và miền nam phải nhượng bộ để quân đội BV được ở lại. Cuối cùng các phe tham gia hòa đàm đều có phần như tác giả Marvin Kalb, Bernard Kalb nhận xét trong cuốn Kissinger, trang 421
“Nixon lấy lại được tù binh, Thọ đòi được Mỹ rút, Thiệu vẫn cầm quyền, Chính phủ cách mạng lâm thời (tức VC) có tư cách chính trị hợp pháp tại miền nam, mỗi người được một chút, nhưng không có ai đòi được hết tất cả“
(Nixon got the prisoners back, Tho got the Americans out, Thieu got to keep his hold on power and the PRG got a degree of political legitimacy in South Vietnam. Everybody got something, but nobody got everything)
Đã có nhiều bàn luận, tranh cãi quanh Hiệp định ngưng bắn của truyền thông báo chí, các nhà học giả, các chính trị gia, phe phái. Trước hết tôi xin nói tới những sự đánh giá cao thành quả của hành pháp.
Ca tụng
Tác giả Larry Berman (1) có nói dư luận truyền thông báo chí ca ngợi Hiệp định Paris của TT Nixon vừa được ký kết như.
Tờ Portland Press Herald viết “hòa bình danh dự” qua một “hòa bình thích nghi”.
Holmes Alexander trên tờ Fort Worth Star-Telegram viết “Chiến tranh của Nixon thành Hòa bình của Nixon”.
Tờ Milwaukee Sentinel viết “Lòng can đảm, mưu trí, kiên nhẫn và lòng cương quyết của Nixon đã được đền bù với Hiệp định chấm dứt chiến tranh Việt Nam nhìn chung có vẻ tốt đẹp mà mọi bên đều mong đợi một cách hợp lý (all things considered, appears to be about as good as all sides could reasonably expect)”
Tờ Washington Post nói: “Ông đã vinh danh lời cam kết chấm dứt chiến tranh trong bốn năm một cách phong phú, chúng ta biết ơn ông sâu xa”.
Tờ Boston Herald-Traveler viết: “Điều chắc chắc nó hơn hẳn sự đầu hàng hèn hạ mà một số người Mỹ đã đòi hỏi hoặc muốn đám phán để ký kết…Người dân Mỹ thọ ơn Ông Nixon vì ông đã từ chối bỏ rơi đồng minh hoặc thất hứa hay bỏ rơi tù binh và đã thực hiện một Thỏa ước hứa hẹn một nền hòa bình lâu dài thực sự”.
Tờ Wall Street Journal nói: “Người ta có thể tranh cãi về đường lối của ông nhưng không thể chối cãi sự kiện ông đã đem 550,000 người ra khỏi VN và tù binh về nước mà không làm sụp đổ Chế độ Sài Gòn…Kẻ địch phải hiểu rõ rằng xương sống của con người trong tòa Bạch Ốc này làm bằng thép đã mang lại Hiệp định trong khi những con lang, sói kêu, hú…”
Tờ Cleveland Plain Dealer nói: “Cuối cùng ngưng bắn được cống hiến cho Ông Nixon. Ván bài quốc tế của ông đã thanh toán hết mọi áp lực từ trong nước ra ngoại quốc. Đây là giờ phút tươi đẹp nhất dành cho ông Tổng thống thứ ba mươi bẩy của chúng ta”.
Haldeman, phu tá Tổng thống ghi trong nhật ký, ngày 27/1/1973, Tổng thống cho biết các báo thiếu một chi tiết: Nixon là con người cứng rắn, Kissinger khi ra Quốc hội đã không nói tới một điểm liên hệ cá tính của con người cứng rắn tới cùng ấy. Kissinger đã không nói rằng nếu không có lòng can đảm của Tổng thống chúng ta không có hòa bình. Căn bản của vấn đề ở chỗ ông là người cô đơn trong tòa Bạch Ốc, ít được chính phủ ủng hộ, bị Thượng viện và một số Dân biểu chống đối mạnh, bị phản ứng dữ dội của truyền thông và ý kiến các nhà lãnh đạo tinh thần, tôn giáo, thương mại, giáo dục… nhưng được giới lao động ủng hộ, một mình ông đã vượt qua hết. Sự khác biệt giữa thành quả của Tổng thống đã đạt được và những người đối lập muốn đó là khác biệt giữa hòa bình danh dự và hòa bình giả tạo bằng sự đầu hàng của Mỹ
Trong một bản tường trình về VN của Tòa Bạch Ốc gửi các Dân biểu Quốc hội đã đưa ra những viễn tượng, xin sơ lược dưới đây (2)
Trong bốn năm liền, Richard Nixon đã một mình đứng tại Thủ đô trong khi những lớp trẻ đả đảo chính sách can thiệp vào Đông Dương của ông. Trong bốn năm liền ông đã là nạn nhân của những kẻ xấu tấn công. Truyền thông cấp tiến đánh phá ông Nixon, tấn công, cắt, đập ông tứ phía suốt ngày đêm. Cơ sở giới trí thức xử dụng sức mạnh vô song của họ để gây ảnh hưởng tới ý thức của người dân. Quốc hội tấn công không ngừng suốt những năm tháng ấy.
Không có ông Tổng thống nào bị quấy phá liên tục bới những kẻ mà đúng lý ra phải quì gối mỗi đêm để cám ơn ông Trời rằng họ không phải làm cùng cái quyết định mà Nixon đã làm.
Cùng đứng với Tổng thống trong những năm ấy chỉ có một nhúm ký giả và một số tờ báo, hầu như họ ở ngoài Hoa Thịnh Đốn. Nhưng cũng có những người can đảm ở Quôc hội đứng bên Tổng thống. Nhưng quan trọng nhất là hằng triệu, hằng triệu những người thường dân Mỹ, Đám đông công dân thầm lặng, những người này nhận định đất nước trải qua thời kỳ mà những tư tưởng khuynh tả hằng ngày tuyên truyền chống Tổng thống Hoa Kỳ. Họ là những người sắt đá có cá tính.
Chỉ trích
Truyền thông báo chí ca ngợi thành tích của TT Nixon trong việc ký được Hiệp định cho thấy sự mong mỏi hòa bình của người dân Mỹ, phần nhiều do những người ủng hộ Nixon. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến đối lập như dưới đây, những lời chỉ trích Hành pháp đã ký Hiệp định không thuận lợi, thiệt hại cho miền nam hoặc đã kéo dài chiến tranh thiệt hại cho Hoa Kỳ. Tác giả Walter Isaacson nói (3)
“Một số vị phụ tá trong bộ tham mưu của Kissinger như Negroponte và (Tướng) Haig tưởng là cuộc oanh tạc (cuối 1972) phải ký được một Hiệp định thuận lợi về cơ bản để tống cổ Quân đội BV ra khỏi miền nam. Negroponte mỉa mai nói “Chúng ta oanh tạc BV để bắt họ phải chấp nhận nhượng bộ của ta” (We bombed the North Vietnamese into accepting our concessions). Richard Holbrook, cựu trợ lý của Harriman sau thành phụ tá Bộ trưởng ngoại giao đặc trách Á châu sự vụ lại coi Hiệp định chung cục như sự đầu hàng. Ông nói “Cho quân đội BV ở lại miền Nam chỉ là sự bỏ chạy trá hình, chúng ta có thể ký Hiệp định y như vậy bất cứ lúc nào sau khi ném bom năm 1968 (tức 31/10/1968)”
Walter Isaacson trích ý kiến một số vị phụ tá của Kissinger rồi chính ông đã cho thêm nhiều lời bàn như phải chăng Hiệp định đạt được tháng 1/1973 không hơn gì Hiệp định có thể ký từ đầu năm 1969. Ông nói nếu vậy có đáng cho ta phải trả cái giá cao hơn không? Hà Nội cho rằng Hiệp định 1973 về cơ bản người Mỹ đã chấp nhận những điều khoản đã được BV đưa ra từ tháng 5/1969 mà họ gọi là chương trình mười điểm.
Tác giả này cho rằng nếu so sánh chương trình mười điểm của Hà nội (1969) với Hiệp định 1973 từng điểm một ta sẽ thấy nó giống nhau từng chữ một. Nhưng chỉ có một điểm khác là Hiệp định 1973 thiều điểm thứ năm trong chương trình 1969 của Hà Nội: CS đòi Chính phủ NV Thiệu phải bị thay thế bằng chính phủ Liên hiệp do họ chấp nhận. Hà nội vẫn đòi điều này cho tới tháng mười 1972 mới chịu nhượng bộ, một phần vì thua nặng và đã ăn đòn B-52 trong trận tổng tấn công 1972.
Nhưng có đáng cho ta phải tiếp tục chiến tranh thêm bốn năm nữa mới ký được Hiệp định để ông Thiệu giữ được quyền lực tại Sài Gòn ?
(But was it worth four more years of war in odrder to get a cease-fire that allowed Thieu to retain authority in Saigon?)
(4)
Walter chỉ trích Nixon đã làm chết thêm 20,552 lính Mỹ, xã hội bị xáo trộn, chính quyền không còn được coi trọng, tai tiếng xấu cho Hoa kỳ tại ngoại quốc, chiến tranh lan ra Miên, Lào. Cuối cùng Hiệp định chỉ kéo dài được hai năm, sau đó CS chiếm hết và Thiệu bỏ chạy. Như thế mọi nỗ lực trở nên vô nghĩa mặc dù với lý do vì danh dự. Nixon và Kissinger đều tin sắp có hòa bình và cùng thỏa thuận không loại bỏ Thiệu (He agreed with Nixon that it should not involve abandoning the Thieu regime) (5)
Walter cho rằng để theo đuổi mục đích trên thì có cách tốt hơn. Thảo luận với quốc hội Kissinger và Nixon có thể phác họa vị trí đàm phán yếu thế của Hoa kỳ để lấy ủng hộ của người dân trong nước. Nhưng vì không lấy ủng hộ của Quốc hội và người dân cho một chương trình rõ ràng, hai ông lại bị vướng vào chỗ cần bí mật, đe dọa BV, áp lực họ…Rút quân thực ra chỉ để câu giờ trước sự sốt ruột của người dân. Những trận oanh tạc càng gây xáo trộn trong nước hơn là đạt thắng lợi chiến trường. Chính sách Kissinger và Nixon dựa trên lừa gạt và bí mật hơn là tìm sự ủng hộ một cách dân chủ để sống còn.
Hai tác giả Marvin Kalb, Bernard Kalb (6) cũng chỉ trích Nixon, Kissinger nhiều điểm về Hiệp định ngưng bắn. Ngày 11/9/1972 Kisinger tới Moscow đàm luận với Tổng bí thư Brezhnev trước khi tới Paris. Kissinger ở Moscow bốn ngày để thảo luận thương thuyết giữa việc Nga cần mua lúa mì, Mỹ cần chấm dứt chiến tranh VN. Kissinger tới Moscow đúng lúc Brezhnev đang cần cứu trợ vì nạn mất mùa, thiếu hụt lúa mì trầm trọng, may cho Nga sô TT Nixon lại không khai thác tình trạng này của Nga. Nixon hy vọng Sô viết sẽ áp lực Hà Nội ký kết Hiệp định ngưng bắn tại Paris, Kissinger đồng ý về điểm này, ông luôn nghĩ Hà nội chỉ là khách hàng của Nga hơn là đồng minh xung kích độc lập.
Trong nội bộ tham mưu của Kissinger, các phụ tá của ông như Tướng Haig, Negroponte lại cho rằng BV thay đổi chính sách, chịu nhượng bộ ngày 9/10/1972 (không đòi lật đổ Thiệu, lập Chính phủ liên hiệp) không phải vì áp lực của Sô viết mà do hậu quả liên tục của việc Mỹ ném bom và phong tỏa hải cảng (năm 1972). Kissinger thì luôn tin vào sự phân tích quyền lực siêu cường, tin lời hứa của Brezhnev rằng trong vài tuần nữa BV sẽ linh động. Đánh giá Brezhnev dựa trên việc Lê Đức Thọ mới đây trước khi tới Paris đã dừng tại Moscow. Chỉ ít ngày sau chính phủ đã chấp thuận một thỏa ước thương mại lớn khác thường để Nga mua ít nhất là 750 triệu đô la lúa mì của Mỹ do các công ty tư xuất cảng trong ba năm.
Marvin Kalb và Bernard Kalb cho rằng Kissinger nhiệt tình với sự thương thuyết mà không biết, không để ý tới tin tình báo về sứ mất mùa to tát của Nga. Ngoài ra ông ta cũng không để ý đến việc các nhà buôn lúa mì tư nhân Mỹ đã bán cho Nga khối lượng lúa mì là bao nhiêu để hậu quả là người Nga được lúa, bánh mì còn người Mỹ phải chịu thiệt nặng. Cộng sản đã tỏ ra khôn ngoan trong việc buôn bán với Tư bản, họ đã mua được một khối lượng lúa mì khổng lồ với giá rẻ mạt, thấp hơn giá thị trường khi ấy rất nhiều. Cuối cùng tiền thuế của người dân Mỹ đóng cho chính phủ đã được đem trợ cấp cho việc mua lúa của Nga.
Ngoài ra việc xuất cảng lúa mì này đã khiến cho lúa mì trở nên khan hiếm ngoài thị trường Mỹ, giá bánh mì, thực phẩm tăng vọt, sữa thịt cũng hối hả lên nhanh. Người tiêu thụ và cả nên kinh tế Mỹ phải chịu hậu quả nặng vì Kissinger, Nixon đã không quan tâm tới hậu quả kinh tế của việc thượng lượng. Họ chỉ nghĩ đến cái lợi chính trị mà không chịu nhìn xa hơn thế. Trên đây là những ý kiến của Marvin Kalb, Bernard Kalb chỉ trích Kissinger, Nixon “khôn nhà dại chợ” đã bán lúa mì cho Nga với giá rẻ mạt chỉ vì quá sốt ruột trong việc ký kết Hiệp định Paris.
Kalb cũng nói về khuyết điểm của việc ký kết (7): Hiệp định ký kết 23-1-1973 (Kissinger ký tắt với Thọ ngày 23) xem ra không hơn gì bản dự thảo hai bên định ký ngày 26-10-1972 trước đó đó đúng ba tháng mặc dù đã oanh tạc BV ồ ạt tháng 12.
Kissinger đã cố xác nhận ba tháng này có giá trị, cần thiết, có lần ông nói với Marvin Kalb và Bernard Kalb như nó đã loại bỏ ý nghĩa mơ hồ về chính phủ Liên hiệp, sau đó đặc tính Quốc gia của miền nam đã được thể hiện rõ ràng qua xác định của khu phi quân sự (DMZ), cuối cùng lực lượng giám sát quốc tế được củng cố, thủ tục , khi nào ký Hiệp định đã được giải quyết, vấn đề ngôn ngữ đã được làm sáng tỏ. Bản liệt kê những lợi ích đòi được sau ba tháng chiến tranh (từ tháng 10/72 tới tháng1/73) của Kissinger đã bị vài chuyên viên theo dõi hòa đàm nghi ngờ.
Một viên chức nói “Cuộc oanh tạc vĩ đại không đạt tiến bộ gì mấy. Cái mà B-52 làm được một chút tháng 1/73 thực ra chỉ là bản Dự thảo có từ tháng Mười và đó là tất cả những gì chúng ta muốn”. Chỉ có một chút thay đổi ở Hiệp định sau cùng đã ký, sự khai thông thật ra đã có từ tháng Mười. Một viên chức cho rằng khoảng thời gian này ta rất bối rối, phải chăng ta đã ký Hiệp định tháng Giêng (1973) mà đáng lý ta đã ký từ tháng Mười (1972). Hành pháp cho rằng trận oanh tạc (cuối 1972) đã khiến BV phải bò lại bàn hội nghị ký kết những khoản do Mỹ yêu cầu. Nhưng viên chức trên cho rằng trận oanh tạc dữ dội ấy chỉ để yểm trợ tâm lý và quân sự cho miền nam VN, có mục đích tàn phá bộ máy chiến tranh BV cũng như răn đe Nga, Trung Cộng hơn là đòi hỏi BV nhượng bộ tại bàn hội nghị.
Nhận xét
Để vấn đề được dễ hiểu hơn, tôi xin nhắc sơ tiến trình hòa đàm như sau.
Từ 1969 BV đưa ra những điều khoản cứng rắn như mệnh lệnh cho Mỹ.
-Mỹ phải rút quân đơn phương
-Loại bỏ Nguyễn văn Thiệu.
-Lập chính phủ Liên hiệp.
-Cắt hết viện trợ cho VNCH.
Mãi cho tới tháng 10-1972 Hà Nội mới chịu nhượng bộ (có thể do Nga áp lực, do ị thua nặng trận mùa hè 1972, biết Nixon sẽ tái đắc cử tháng 11-1972).
Trong giai đoạn này có hai chủ trương hòa đàm:
-Nixon và Kissinger không nhượng bộ Hà nội, cương quyết không đầu hàng CS, hòa bình trong danh dự, không loại bỏ chính phủ Thiệu .
-Thành phần đối lập (opponents) như Quốc hội thù nghịch, phản chiến, đảng Dân chủ… có chính sách trái ngược. Đối lập chiếm đa số trong giai đoạn này, họ muốn ký Hiệp định sớm, nhượng bộ BV, cắt viện trợ VNCH để đánh đổi hòa bình và tù binh Mỹ, sẵn sàng bỏ Đông dương từ 1969 để rút khỏi cuộc chiến sa lầy.
Bốn điểm mà Hà nội đưa ra trên đây thực ra chỉ là đòi Mỹ và VNCH đầu hàng không điều kiện, giao miền nam cho họ. Sở dĩ CS ngoan cố như vậy vì biết Nixon đang bị Quốc hội, phong trào phản chiến chống đối, thúc ép ký sớm. TT Nixon cho biết (8) chính đám biểu tình đã nối giáo cho giặc kéo dài chiến tranh. Nhìn chung Hành pháp đang ở thế yếu trong đàm phán với CS.
Tháng 10-1972 Hà nội nhượng bộ gần hết những yêu sách cũ, không đòi lật đổ chính phủ Thiệu, không Liên hiệp, lập Hội đồng hòa giải dân tộc hữu danh vô thực, không đòi Mỹ cắt viện trợ miền Nam nhưng nhất quyết không rút quân về Bắc. Mỹ và BV ký Dự thảo hiệp định ngày 9-10-1972, hai bên dự định sẽ ký chính thức ngày 26-10. Ngày 19 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn để tường trình về Dự thảo Hiệp định tin tưởng TT Thiệu sẽ chấp nhận nhưng bị Thiệu và ban tham mưu chống đối dữ dội. Kissinger mới đầu dỗ ngon dỗ ngọt rồi hăm dọa nhưng ông Thiệu vẫn bác bỏ Dự thảo. Ở Sài gòn được bốn hôm, Kissinger điện tín về tòa Bạch Ốc đề nghị ký riêng với BV nhưng Nixon từ chối, ông không muốn ký trước bầu cử Tổng thống 7-11-1972 vì biết trước sẽ tái đắc cử. Nixon khuyên Kissinger dừng ép Thiệu, hãy để cho ông ta thoải mái.
Hiệp định đáng lý ký từ 26-10-1972 bị trở ngại vì bị VNCH bác bỏ và Nixon cũng không muốn ký riêng với BV. Phái đoàn CS ngoan cố khiến Nixon phải cho oanh tạc miền Bắc dữ dội cuối năm 1972, Hiệp định đã được ký kết đúng ba tháng sau vào ngày 27-1-1973.
Những lời khen, ca tụng Nixon như trên cho thấy người dân đã khao khát hòa bình từ lâu, dù là người ủng hộ cũng như chống Nixon đều đã quá chán cuộc chiến sa lầy. Truyền thông ca ngợi TT Nixon vì ông đem lại hòa bình, lấy tù binh, đem quân về nước mà không bỏ rơi đồng minh, không lật đổ chính phủ Thiệu theo yêu cầu của Hà Nội mà Nixon cho đó là sự đầu hàng hèn hạ (abject capitulation). Trái với đường lối của Nixon, đảng Dân chủ, Quôc hội thù nghịch, phong trào phản chiến…chủ trương cắt viện trợ VNCH, lật đổ chính phủ Thiệu theo đòi hỏi của Hà nội để sớm có hòa bình lấy tù binh về nước. Người ta ca ngợi Nixon can đảm, một mình chống chọi biết bao mũi dùi tấn công của đối lập, của Quốc hội thù nghịch, của phản chiến.. họ muốn chấm dứt chiến tranh ngay.
Nixon thắng lớn trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày 7-11-1972, đạt 60.7% số phiếu phổ thông, hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu, đạt 520 phiếu cử tri đoàn (hơn 90%) vì người ta thấy ông sắp mang lại hòa bình, đó là hòa bình trong danh dự. Nhiệm kỳ 1969-1972 của Nixon diễn sự giằng co giữa Nixon, Kissinger và những người Đối lập nhất là phong trào Phản chiến, Quốc hội thù nghịch, người Mỹ gọi đây là cuộc chiến tại đất nhà.
Nixon nói (9)
“Những kẻ chống đối muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tôi cũng làm thế. Nhưng họ không thấy sai trái ở chỗ bỏ rơi người dân miền nam VN để chấm dứt cuộc chiến ngay Tôi thấy thật là bất nhân khi ta để cho bọn độc tài Hà nội dựng cơ sở tại Sài Gòn. Là Tổng thống, tôi có trách nhiệm phải làm cái gì đúng cho đất nước”.
Các sử gia kề trên chỉ trích Nixon, Kissinger sau ba tháng chiến tranh, sau khi dội 20 ngàn tấn bom xuống Hà Nội, Hải phòng cuối 1972 đã không đòi thêm được gì cả, bản Hiệp định đúng ra phải ký từ tháng mười.
Sự thực trận oanh tạc từ 18 tới cuối tháng 12-1972 trước hết để kéo BV lại bàn hội nghị, phái đoàn BV bỏ hòa đàm từ 13-12 không trở lại. Họ đánh hơi thấy phiên họp Quốc hội thượng tuần tháng 1-1973 có thể sẽ ban hành luật chấm dứt chiến tranh Đông Dương, cắt viện trợ VNCH để đổi lấy hòa bình và tù binh Mỹ khi ấy chẳng cần họp hành vì Hòa đàm Paris sẽ đương nhiên bị dẹp. Trận oanh tạc cuối 1972 cũng là để đánh phá hạ tầng cơ sở BV khiến họ suy yếu.
Nixon nhanh tay xử dụng sức mạnh của B-52 mà Hà nội phải trở lại bàn hội nghị nếu không có thể thảm kịch sẽ sẩy ra: Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh, rút quân, cắt viện trợ VNCH… để đánh đổi lấy 580 người tù binh Mỹ. Hà nội đã chịu thua trong canh bạc này, trận oanh tạc long trời lở đất đã cứu được Đông Dương sụp đổ ít ra là trong lúc này.
“Trận ném bom đã đạt mục đích quân sự, chúng ta đã đánh phá tan nát bộ máy chiến tranh của Bắc Việt” (10)
Kissinger sang Sài Gòn từ 19 tới 23 tháng Mười 1972 để thuyết phục ông Thiệu ký Hiệp định nhưng như ta đã nói VNCH bác bỏ. Kissinger đánh điện về cho Nixon đề nghị ký riêng với BV dự trù ngày 26-10 nhưng Nixon từ chối vì không muốn có Hiệp định trước bầu cử, người ta sẽ cho là ông dùng Hiệp định để lấy phiếu, thực ra theo thăm dò ông đã vượt rất xa McGovern.
Walter Isaacson không đồng ý với đường lối đàm phán bí mật của Kissinger, Nixon như trên nhưng thực ra nếu công khai lại dễ bị Quốc hội, người dân chống đối hơn nữa.
Theo Marvin Kalb, Bernard Kalb(11) Nixon không muốn ký Hiệp định mà không có Thiệu, người bạn đồng minh, cũng không muốn vội ký riêng với Thọ, kẻ địch. Như thế việc ký kết không thành tháng Mười có lý do riêng, trận oanh tạc tháng 12-1972 cũng đã đạt kết quả mong muốn ngoài việc khiến Hà Nội phải trở lại bàn hội nghị, đánh phá bộ máy chiến tranh của BV và cảnh cáo cho Moscow, Bắc Kinh biết Mỹ sẽ hành động mạnh khi quyền lợi bị đe dọa.
Như trên các phụ tá của Kissinger đã chỉ trích cuộc oanh tạc BV dữ dội cuối năm 1972 nhưng vẫn không trục xuất được quân đội BV ra khỏi miền nam, VNCH cũng đã cực lực phản đối thất bại này của Hiệp định. Về điểm này Nixon đã có câu trả lời rõ ràng trong (12)
“Nhưng có một vấn đề then chốt mà chúng ta không thể nào lay chuyển BV thay đổi lập trường: Họ từ chối rút quân khỏi miền nam VN. Từ đầu chí cuối họ xác nhận đây là nội chiến và từ chối nhìn nhận đóng quân ở miền nam. Hà Nội vì thế bác bỏ yêu cầu của ta đòi họ rút quân lấy cớ họ không can thiệp vào cuộc chiến.
Chúng tôi biết không thể nào buộc họ phải nhượng bộ điều này. Có một châm ngôn ngoại giao là ta không thể thắng tại bàn hội nghị nếu cái mà ta không thắng ở trận địa. Mặc dù VNCH đã đẩy lui địch trước mùa mưa. BV
Vẫn còn chiếm một diện tích rộng dọc theo khu phi quân sự và tại cao nguyên. Chúng tôi biết nếu đạt thỏa hiệp đòi BV trả lại đất cho VNCH thì họ sẽ không ký Hiệp định. Nếu ta đòi BV rút quân bằng được sẽ không có Hiệp định”
Sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, mặc dù BVbị thảm bại, tàn quân của họ vẫn còn đóng tại vùng I và II. Sở dĩ Hà Nội không chịu rút quân về Bắc phần vì họ đã nướng một triệu người, nay chẳng lẽ không được gì, vả lại họ biết rõ Nixon đang bị Quốc hội và phản chiến chống đối thúc ép kỳ Thỏa ước ngưng bắn để sớm có hòa bình, người Mỹ đã quá sốt ruột.
Nixon nói (13)
“Quốc hội sẵn sang bỏ phiếu chấm dứt chiến tranh nếu ta không ký được Hiệp định…..
….Ngày 2/1/1973 Hạ viện Dân chủ bầu nội bộ với lệ 154 thuận và 75 chống để cắt hết viện trợ mọi hoạt động quân sự ở Đông dương vừa khi đã rút quân về nước và lấy lại tù binh…. Hai ngày sau, bầu cử nội bộ Dân chủ Thượng viện cũng thông qua dự luật tương tự với số phiếu 36 thuận-12 chống.
Chúng ta bị bó buộc phải kết thúc thỏa hiệp chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình ở Việt Nam, nó không hoàn toàn, có nhiều khuyết điểm. Tôi muốn thương thuyết một Hiệp định tốt đẹp hơn nhưng chúng ta không thể chần chờ thêm để được những khoản tốt hơn khi Quốc hội sắp ra luật chấm dứt chiến tranh có lợi cho Hà Nội.
Đó không phải là giờ phút tốt đẹp nhất của ta, mà là giờ phút cuối cùng.
(It was not our finest hour- but it was the final hour)”
Larry Berman cũng nói như vậy(14) , đầu tháng 1-1973 Quốc hội dọa cắt viện trợ Đông Dương để lấy tù binh, và rút quân. Quốc hội khóa 93 dự định họp ngày 3-1-1973. Dự luật chấm dứt chiến tranh đang tiến hành. Cuối tháng 11-1972, Nixon đã bị các vị chức sắc Quốc hội gồm John Stennis, Barry Goldwater và Gerald Ford … lưu ý nếu miền nam VN gây trở ngại hòa đàm, Quốc hội sẽ ra luật đổi lấy tù binh bằng rút hết quân, cắt viện trợ VNCH với tỷ lệ phiếu 2-1 tại Hạ Viện (15)
Thời điểm này, theo Nixon, Quốc hội Dân chủ tỏ ra rất khó chịu khi hòa đàm bị trở ngại từ phía miền nam VN, họ đang đe dọa thỏa mãn yêu cầu của Hà Nội: Cắt viện trợ VNCH, rút quân để đổi tù binh và ngưng bắn.
Nixon nói (16)
“Tôi biết rằng Hiệp định có nhiều khuyết điểm. Nhưng tôi nghĩ nhìn chung cũng tốt đẹp. Và tôi biết rằng trong khi Quốc Hội đang phản đối ầm ĩ, chúng ta không thể làm gì khác hơn thế”.
TT Nixon nói với Kissinger nếu không ký được Hiệp định Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh, đó là thảm kịch. khi ấy Hành pháp sẽ không thể giúp đồng minh VN được. Nếu chần chờ để đòi thêm những khoản tốt hơn chỉ là già néo đứt dây, có thể sẽ mất cả chì lẫn chài.
Nixon thuyết phục Thiệu việc BV rút quân không quan trọng, đó chỉ là đám tàn quân CS tại những vủng dân cư thưa thớt mà thực ra viện trợ tiếp tục của Quốc Hội cho miền nam VN và sự cho phép cưỡng bách thi hành Hiệp định bằng B-52 mới là quan trọng. TT Nixon cho rằng giấy mực cũa Hiệp định không quan trọng bằng bom đạn của B-52.
Nếu BV rút hết quân trong khi Quốc hội cắt viện trợ, không cho oanh tạc trừng phạt vi phạm thì cũng vô ích, miền Nam sẽ sụp đổ vì không được cung cấp tiếp liệu đạn dược.
Nixon nói (17)
“Sự tồn tại của miền nam Việt Nam không phụ thuộc vào việc quân địch còn đóng tại một số vùng dân cư thưa thớt. Nó phụ thuộc vào việc Nước Mỹ cưỡng bách thi hành Hiệp định cùng với việc tiếp tục viện trợ và với sự đe doạ trừng trị bằng vũ lực. Điều đó chỉ có được nếu Sài Gòn được Quốc Hội ủng hộ. Nếu chúng ta không giải quyết cuộc chiến nhanh chóng, Quốc Hội có thể biểu quyết đạo luật chấm dứt chiến tranh vào tháng Một (1973). Nếu Quốc hội kết luận rằng miền Nam Việt nam gây trở ngại việc ký kết, việc này có thể khiến ta (Hành pháp) không giúp được đồng minh (túc VNCH) nếu cần. Tuy nhiên tôi cũng để cho Thiệu có thời gian suy nghĩ”.
Tháng 11 và 12 năm 1972 ông Thiệu mở chiến dịch lên án Kissinger và Hành pháp Mỹ đã bắt ép VNCH ký Hiệp ước bất bình đẳng khi để cho BV còn đóng quân ở miền nam. Sự chống đối này chỉ là vô ích, đòi hỏi những cái mà người ta không thể thỏa mãn được như đã nói trên. TT Nixon không thể đòi Hà Nội rút quân vì Hành pháp đang ở thế yếu bị Phản chiến, Quốc hội thúc ép ký gấp. Nếu hòa bình trở ngại Quốc hội sẽ ra tay, khi ấy sẽ là một thảm kịch cho cả Đông Dương
Trả lời phỏng vấn của tờ báo Tây Đức Der Spiegel vào năm 1979 tại hải ngoại, ông Thiệu cũng đã xác nhận sự thất bại không phải do CSBV còn đóng quân tại miền nam mà vì không được Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ quân sự cũng như sự yểm trợ hoả lực, có nghĩa là miền nam sụp đổ không phải do Hiệp định Paris
Sau bốn năm đàm phán Nixon và Kissinger chỉ có thể giúp chính quyền Nguyễn văn Thiệu còn tồn tại không bị lật đổ và miền nam không bị liên hiệp, nhưng không thể đòi BV rút quân như đã nói.
Cuối cùng mỗi bên được một tí, nhưng riêng Chính Phủ Cách mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tục gọi là Việt Cộng thì chẳng được tí gì cả ngoài cái bánh vẽ Hội đồng hòa giải dân tộc. Sự thực Việt cộng cũng không có thực lực, họ bị nướng gần hết quân trong trận Mậu Thân đầu năm 1968, sau này chỉ còn khoảng 20,000 người trang bị vũ khí nhẹ. Từ những năm 1966, 1967 trở đi Mặt trận Giải Phóng đã bị CSBV sỏ mũi khi họ xâm nhập ồ ạt miền Nam. Sau này người Mỹ mới biết việc đòi lật đổ Thiệu và lập chính phủ Liên Hiệp là do Chính phủ cách mạng lâm thời (MTGP) yêu cầu BV đưa ra bàn hội nghị. Sau khi bị nếm những trận oanh tạc long trời lở đất cuối 1972, BV phải loại bỏ những yêu sách này.
CSBV chiếm được miền nam VN ngày 30-4-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời vội in truyền đơn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc Trung Lập nhưng bị Hà Nội khiển trách và dẹp bỏ ngay để thống nhất đất nước. Mặt trận giải phóng hay Chính phủ cách mạng lâm thời chẳng là cái thá gì, chỉ là công cụ của BV.
Ngoài ra trong theo nhận định riêng của Henry Kissinger trong hồi ký White House Years (18): Mỹ đã hai lần sai lầm lớn:
-Sau khi Hòa đàm tiến hành được 5 tháng, Tổng thống Johnson đã nhượng bộ Hà Nội cho ngưng oanh tạc toàn diện BV cuối tháng 10-1968.
-Từ 1969 tân Tổng thống Nixon cho rút quân đơn phương để xoa dịu chống đối tại Mỹ và hy vọng Hà Nội đàm phán nghiêm chỉnh.
Nhưng cuối cùng Hà Nội vẫn ngoan cố không chịu đàm phán và hai nhượng bộ lớn kể trên chỉ là vô ích, đúng lý ra phải oanh tạc, đánh mạnh BV từ 1970, chúng là bọn thân lừa ưa nặng
Theo nhận định của Kissinger, Hà nội không muốn hòa đàm, Hiệp định, hòa bình mà chỉ muốn dùng bạo lực tiếp tục xâm lăng. Ông ta nói đúng, năm 1954 họ vờ lên án chính phủ Ngô Đình Diệm không thi hành Hiệp định Genève thực hiện Tổng tuyển cử để có cớ xâm lược miền nam và bây giờ tháng 1-1973 họ ký Hiệp định chỉ để chờ Mỹ rút hết, nghỉ ngơi rồi tiếp tục cuộc chiến xâm lược.
Như trên tôi nói về hình thức của Hiệp định còn thực chất của nó thì khác hẳn, Hiệp định Paris chỉ là một hình thức cho vui, thực chất của vấn đề nằm ở chỗ:
-Đối với Mỹ đây là cách để rút ra khỏi Đông dương sao cho êm đẹp, cho khỏi bị mất mặt.
-Đối với Hà Nội Hiệp định chỉ là nghỉ giải lao để đánh tiếp, ngay sau khi ký Hiệp định, BV cho mở đường xa lộ Đông Trường Sơn ngày đêm chuyển vận vũ khí vào Nam chờ ngày tổng tấn công dứt điểm.
Trọng Đạt
Cước chú
(1) No Peace No Honor… các trang 235, 236, 238
(2) Trang 238, sách kể trên
(3) Trong Kissinger A Biography, trang 483.
(4) Sách nói trên trang 484.
(5) Sách nói trên trang 485
(6) Trong cuốn Kissinger (trang 345, 346, 347)
(7) Trang 421 sách kể trên: (What did those three extra months of war accomplish – the three months between October 26 and January 23, including the massive raids against the north in December?)
(8) Trong No More Vietnams trang 127
(9) Sách kể trên trang 127
(10) No More Vietnams trang 158.
(11) Trong Kissinger trang 422 (He did not want to sign an agreement without Thieu, an ally. He did not want to be stampeded into an agreement by Tho, an enemy).
(12) No More Vietnams trang 152 (But one major issue we could not budge the North Vietnamese from their positions: They refused to withdraw their forces from South Vietnam)
(13) Trang 1969-1970 sách kể trên
(14) No Peace No Honor… trang 221,
(15) Sách nói trên, trang 200.
(16) No More Vietnams trang 167 (But I believed that on balance it was sound. And I knew that, in light of the growing stridency of our opposition in Congress, we had no alternative to signing it)
(17) Sách nói trên trang 155
(18) Chương 8, The Agony of Vietnam trang 276-311
—————–
Nguyễn Quốc Khải
27-12-2012
RFA
Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày nay.
Thay vì đưa đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau. Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được bạch hóa trong thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris 1973.
Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973
Cuộc hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và tiếp tục dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế tắc. Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục trong 12 ngày vào cuối năm 1972. Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến.
Ngày 23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ. Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.
Trong khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.
Khoảng cách chạy tội
Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973.
Việc mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy, chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo.Vì muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản.
Trên một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:
“We need a decent interval. You have our assurance.”
Theo những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“We will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there should be a cease-fire, and some attempt at negotiations. If the agreement breaks down then it is quite possible that the people in Vietnam will fight it out. If the [South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then the quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971.
Hoa Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả. VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại trận cuối cùng. Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về vấn đề này:
“The country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months. They will not give a damn if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March 17, 1973.
Ông Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt:
“ We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two, after which – after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater. If we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a damn.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.
Cả hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974. Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976.
Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng:
“Nhiều người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam. Nhưng Ông ta chỉ cương quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June 2010.
Vào tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval).
Kéo dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh
Những tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:
1. Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ.
2. Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).
Để che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972) của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút quân qua nhiều năm.
Trong cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:
“We’ve got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.” President Richard Nixon, September 4, 1971.
Quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972.
Đối với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu:
1. Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công.
2. Giữ lời hứa khi tranh cử.
Đối với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% – 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không.
Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày 11-3-1971:
Nixon: “We’ve got to get the hell out of there.”
Kissinger: “No Question.”
Tuy nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị.
Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“In the proposal you have suggested, our Government will continue to exist. But it is only an agonizing solution, and sooner or later the Government will crumble and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen Van Thieu, Saigon, October 4, 1972.
Ông Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu:
“I don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20, 1973.
Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris.
Hiệp Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh.Trong khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris.
Sau khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh Phước Long vào ngày 6-1-1975 và tỉnh Bình Long vào ngày 7-1-1975. Khi không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để giải phóng miền Nam bằng cách ngang nhiên xua quân vượt qua biên giới Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau, Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt Nam. Tại New Orleans vào ngày 23-4-1975, Ông Ford tuyên bố chiến tranh Việt Nam chấm dứt.
Vào buổi trưa ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di tản cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu.
Phục hồi Hiệp Định Paris 1973?
Gần đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH.
Giả sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ may nào cả, UBLĐLTVNCH sẽ không thâu tóm toàn bộ phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17 ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976) . Nhưng trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Tóm tắt lại để đỡ tốn giấy mực, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 đau lòng này do chính họ dựng lên.
Kết luận
Hoa Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên án nặng nề những lỗi lầm đó. Đặc biệt GS Larry Berman đã viết hai cuốn sách được nồng nhiệt đón nhận:
1. Planning Tragedy: The Americanization of the War in Vietnam (1982).
2. No Peace No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001).
Về phía người Việt, hơn ai hết, chúng ta có trách nhiệm lớn về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng Sản. Nếu Ông Hồ Chí Minh khôn ngoan đã không du nhập chế độ Cộng Sản vào Việt Nam và nếu người dân Việt Nam, kể cả một thành phần không nhỏ trí thức, khôn ngoan đã không đi theo Cộng Sản để reo rắc đau thương triền miên cho đất nước trong một nửa thế kỷ và làm đất nước chậm tiến như ngày nay. Một bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Larry Berman, “No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam,” The Free Press, 2001.
2. Finding Dulcinea, “On this Day: Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,” January 27, 2012.
3. Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình Trong Danh Dự,” 27-01-2012.
4. Kennedy Hickman, “Vietnam War end of conflict, 1973-1975,” Military History.
5. Ken Hughes, “Fatal Politics: Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From Vietnam,” Diplomatic History, Vol. 34, No. 3, June 2010.
6. Stanley Karnow, “Vietnam A History,” Penguin Books, 1997.
7. Jeffrey Kimball, “Decent Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the Vietnam War,”December 2003.
8. Henry Kissinger, “Years of Renewal,” Simon & Schuster, 1999.
9. Richard Nixon, “No More Vietnam,” Arbor House, New York 1985.
10. Frank Snepp, “Decent Interval,” Random House, 1977.
11. Global Security, “A Decent Interval – Who Lost Vietnam?” May 7, 2011.
12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia, “Hiệp Định Paris 1973.”