Trần Hoàng Blog

Archive for Tháng Sáu, 2013

►27 ghi chú dành cho những Tù nhân Lương tâm dự khuyết

Posted by hoangtran204 trên 29/06/2013

27 ghi chú dành cho những Tù nhân Lương tâm dự khuyết

Phạm Hồng Sơn
28-6-2013

1. Nguyên tắc “suy đoán vô tội”: Không ai có quyền cho bạn là tội phạm cho đến khi có một tòa án công chính đủ thẩm quyền đưa ra một phán xét kết tội có hiệu lực.

Nhưng bạn đừng bao giờ trông chờ sẽ có một tòa án như thế trong một chế độ độc đảng toàn trị.

2. Dù bạn là tù nhân hay thậm chí là “phạm nhân” cũng không ai có quyền xúc phạm danh dự và tuyệt đối không có quyền xúc phạm thân thể bạn.

Chắc chắn bạn cũng không kỳ vọng chế độ độc đảng toàn trị sẽ tôn trọng những điều hiển nhiên này nhưng bạn cần phải nhớ để bảo vệ nhân phẩm tối thiểu cho mình.

3. Bất kể lúc nào, tình huống nào bạn vẫn luôn có ba quyền đương nhiên sau đây: 1. Quyền không trả lời (im lặng), tức cũng là trả lời. 2. Quyền không ký. 3. Quyền sửa sai, đính chính, phản bác, phản cung lại những điều đã nói hoặc đã ký.

Tất nhiên khi làm như thế, bạn sẽ bị chế độ độc tài đảng trị liệt vào dạng “ngoan cố” “cứng đầu” nhưng chắc chắn bạn sẽ có nhiều giấc ngủ ngon hơn trong tù và đời bạn sẽ bớt được nhiều nỗi day dứt không đáng có.

4. Nếu phải giam chung với tù hình sự, đừng sợ hay ác cảm trước những bộ dạng gớm ghiếc hay những cơ thể xăm trổ đầy mình của họ. Phía sau những ghê rợn đó có thể là một trái tim rất nhạy bén, tự trọng và đầy bản lĩnh. Hãy sống nghĩa hiệp với họ.

5. Ba suy nghĩ sai lầm bạn cần loại ngay ra khỏi đầu: 1. Không khai, không có chứng cớ hoặc mọi việc bạn làm đều đúng luật nên họ sẽ không thể kết tội được bạn và sẽ phải thả bạn. 2. Bên ngoài sẽ giúp bạn hoặc vì bạn là người nổi tiếng, có nhiều quan hệ nên trước sau họ cũng phải thả hoặc án phạt sẽ không đáng kể. 3. Thế là hết rồi, xong rồi.

Than đời hay buông hết hy vọng với đời là hoàn toàn chẳng nên, kể cả lúc bị gông xiềng, nhưng rồi bạn sẽ lại nhận thấy điểm tựa tốt nhất cho đời bạn trước hết vẫn chính là bạn. Bạn cũng không nên phải quá cay đắng nếu vẫn mắc phải suy nghĩ sai lầm số 1 vì sự vô sỉ của chế độ toàn trị cộng sản cho đến nay vẫn nằm ngoài sự tưởng tượng của rất nhiều người.

6. Đừng bao giờ tin lời nói, lời hứa, kể cả cam kết (bằng chữ), của điều tra viên (nhà chức trách). Đừng bao giờ trở thành nguồn tin cho họ (dù họ đã biết hay chưa). Cũng đừng bao giờ sững người khi họ nói đồng đội của bạn đã phản bội bạn.

Hãy tạc vào lòng ba lời nhắn của tiền nhân: “Đừng nghe những gì họ nói mà hãy xem những việc họ làm.”, “Đừng trao trứng cho Ác”, và: “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.”

7. Ba điểm cần nhớ nằm lòng khi làm việc (đi cung, đi thẩm vấn, “đi làm” hay gặp gỡ bất kỳ nhân vật nào thuộc chính quyền): 1. Nói nhiều không có lợi. 2. Nổi nóng, khiếm nhã không có lợi. 3. Nhượng bộ hay coi thường đối thủ đều là nguy hiểm.

Hai điểm đầu cho phép bạn được rút kinh nghiệm nhưng điểm thứ ba phải coi ngay là miệng vực. Khi nghiêm khắc thực hiện ba điểm này bạn sẽ hiểu thấu hơn sự đúc kết của cổ nhân: “nhất thủy nhì hỏa”. Song, bạn không nên nhầm giữa sức mạnh hủy diệt khổng lồ với sức mạnh xanh cũng khổng lồ nhưng nhân ái, thu phục.

8. Hãy chủ động đón nhận một trang đời mới ngay khi bạn bị tống vào tù. Càng chủ động bao nhiêu, đời tù của bạn sẽ càng nhẹ nhõm bấy nhiêu.

Nếu bị biệt giam nghĩa là đời bạn đã được trao một cơ hội để nhận rõ sự khác biệt hoàn toàn giữa đơn độc và cô đơn, được gặp một cơ may để khám phá, tiếp nhận nhiều sức mạnh, cảm hứng, hạnh phúc, đốn ngộ từ những tĩnh lặng mênh mông sâu hút gần như tuyệt đối của vũ trụ. Còn nếu được giam chung là người ta đang tôi cho bạn những kỹ năng hội nhập, đoàn kết, ảnh hưởng, rèn thêm cho bạn lòng trắc ẩn, đức quên mình, là giúp bạn nhìn ra những khiếm khuyết, thói xấu láu lỉnh nhất trong bạn và cho bạn trải nghiệm sự kinh ngạc tột cùng trước sự đa dạng vô biên, vô cấp độ của những khả năng, tài năng, sức chịu đựng và những ham muốn, ước vọng, cả cao cả vô cùng lẫn thấp hèn tột bậc, của loài người và thậm chí của chỉ một người.

Hãy nhớ câu châm ngôn hài hước của tù hình sự: “Đi tù nếu không học được cái lọ thì cũng sẽ được cái chai”.

9. Đừng quá thành kiến với công an. Nhưng phải cảnh giác khi họ tử tế. Người ác nhất vẫn có lúc tử tế nhưng hãy nhớ công an là công cụ của chế độ độc tài toàn trị – chế độ không bao giờ muốn tính thiện con người trỗi dậy có lợi cho bạn – kẻ đang bị coi là thù địch. Hãy trân trọng, ghi nhận mọi thiện ý nhưng chớ mềm lòng.

10. Trong khi thẩm vấn không nhất thiết bạn phải thuộc phía thụ động, sợ hãi. Chính kẻ thẩm vấn cũng có nỗi hoang mang của riêng họ. Họ sợ không khuất phục được bạn. Họ hồi hộp sẽ không moi tin thêm được từ bạn. Và họ rất lo lắng rằng bạn sẽ ngày càng vững vàng hơn.

11. Người ta có thể rất tức tối, thậm chí căm ghét bạn nhưng bạn phải biết không ai có thể khinh thường một tù nhân lương tâm kiên định. Căm ghét vẫn có thể chuyển thành tôn trọng thậm chí kính trọng. Nhưng khinh thường thì không bao giờ.

12. Đừng quá trông chờ vào luật sư khi bị cầm tù. Một luật sư tốt nhất lúc này cũng chỉ có 3 vai trò chính: 1. Cầu nối thông tin giữa bạn và bên ngoài. 2. Cung cấp thêm một số luận cứ pháp luật cho niềm tin của bạn. 3. Chứng nhân cho những gì bạn thể hiện trong những phiên tòa “công khai”.

Bạn nên nhớ bạn không chỉ là thân chủ mà còn là người liên đới, chịu trách nhiệm trước hết và sau cùng cho mọi phát ngôn, hành động của người đại diện pháp lý (luật sư) của mình. Và bạn luôn có toàn quyền đồng ý hay chấm dứt liên đới với luật sư bất kể khi nào kể cả ngay tại tòa. Bạn không nên quên chế độ độc tài toàn trị không bao giờ thèm cần đến tranh tụng nhưng họ rất cần hình ảnh và quan điểm của bạn bị đánh hỏng ngay trước tòa.

13. Khi nỗi nhớ thương gia đình (con cái, cha mẹ, vợ chồng) trào dâng, nên nghĩ đến ba điều: 1. Trách nhiệm của một công dân không chỉ là chăm lo cho gia đình riêng của mình. 2. Đây là điều ngoài mong muốn của bạn. Ngọn nguồn của chia ly, đau khổ này là từ chế độ độc tài. 3. Bạn có thể đã phải gặp một rủi ro xấu hơn như nhiều người đã đột ngột phải chia ly gia đình mãi mãi.

14. Chắc chắn bạn sẽ suy sụp nếu cứ đo đếm thời gian, trông mong ngày trở về. Hãy đặt ra công việc và mục tiêu cần đạt được cho mỗi ngày, mỗi giai đoạn ở tù. Bạn nên nhớ đó là những khoảnh khắc vô cùng đặc biệt mà đời thường không thể có và rất không dễ để hiểu.

15. Có những lúc bạn sẽ có cảm giác vui sướng, nhưng đừng để quá vui. Cũng đừng nghĩ quẩn. Trước mọi vấn đề, cần suy nghĩ thật kỹ càng, chu đáo nhưng đừng để lo lắng, day dứt làm kiệt sức bạn. Hãy biết an tâm, chấp nhận những rủi ro ngoài khả năng tiên liệu.

16. Hãy biết tự giễu mình mỗi khi cảm thấy yếu ớt, căng thẳng hay sợ hãi. Và cũng phải biết tự thầm khen mình, tự hào về mình mỗi khi vượt qua một thách thức.

17. Cảnh giác với ba loại thời tiết dễ làm bạn không còn là bạn: nóng quá, lạnh quá và đặc biệt tiết trời u ám, ẩm thấp (như tiết tháng Ba miền Bắc).

18. Thà nhịn đói còn hơn ăn đồ không an toàn (nghi là ôi thiu, không tin cậy, thức ăn lạ). Hãy nhớ câu: “Chết vì ăn là rất nhục”.

19. Tuyệt đối không dùng dao cạo cũ (của người khác), không để tiêm chích, không để chạm dao kéo (nếu không phải là trường hợp cấp cứu tính mạng). Hãy nhớ câu: “Chết vì xuề xòa là cái chết đáng trách”.

20. Ba cách đơn giản giúp tăng cường sinh lực và sức dẻo dai cho cơ thể: 1. Chạy (hoặc đi bộ) ngay tại chỗ hoặc trong khoảng cách 2m. 2. Chống đẩy (hít đất), đứng lên ngồi xuống nhiều lần. 3. Làm dẻo các khớp từ cổ đến chân, xoa bóp cơ thể.

Siêng năng là cần thiết. Nhưng điều cần hơn là thực hành với sự hiệp nhất cùng nhịp thở trong sự tò mò, chú tâm để cảm nhận và lắng nghe những rung động bình dị mà kỳ lạ trên từng phần thân thể. Hãy luôn nhớ: Mỗi khi bạn lười nhác hay ngại ngùng là có một nụ cười đang hé trên môi của quyền lực độc tài.

21. Có ba thứ quí giá, ngoài bạn ra, không ai có thể tước đi được: 1. Giấc ngủ ngon. 2. Lý tưởng. 3. Mơ ước và suy tư.

22. Hãy đặt mọi yêu sách, đấu tranh của bạn trên ba trụ cột: pháp luật, phi bạo lực và chính trực. Tuy nhiên, tôn trọng pháp luật không có nghĩa là chấp nhận cả những qui định, luật lệ vô lý, phi nhân.

23. Những lúc cảm thấy đau khổ cùng cực hãy nghĩ đến ba điều: 1. Những người bị khuyết tật về thân thể hay trí não. 2. Những bạn bè, người thân đồng tuổi nhưng đã không may qua đời sớm. 3. Sự lo toan, tất tưởi, rủi ro của gia đình ở bên ngoài. Hãy nhớ câu: “Nỗi khổ của ta không bao giờ là nỗi khổ lớn nhất”.

24. Những khi bạn cảm thấy không thể chịu đựng thêm được nữa, hãy nhớ đó chính là lúc bạn đã tiến tới sát khả năng phát hiện ra những năng lực mới của bản thân khiến chính bạn phải sửng sốt.

25. Cả hai thứ, thân thể và ý chí, luôn cần được chăm chút, rèn luyện trong suốt những ngày tù. Nhưng nếu phải giữ lại một thì phải chọn cái thứ hai – cái không ai có thể tù hãm hay giết chết được, trừ bạn.

26. Nếu bạn xác quyết rằng Tạo hóa đã hào phóng ban cho mọi con người có khả năng tận hưởng những quyền tự do bất khả nhượng thì bạn cũng phải tin rằng Tạo hóa muốn con người phải thực sự xứng đáng hơn mọi loài vật khác khi nhận ân sủng lớn lao đó. Bởi Tạo hóa đã chỉ cho một loài duy nhất của địa cầu biết chế ra nhà tù: đó là con người.

27. Đường đến tự do không nhất thiết cứ phải xuyên qua nhà tù nhưng những kẻ kìm giữ tự do rất hay mượn nhà tù để thử độ khát khao tự do. Và những kẻ đó chắc chắn sẽ không thấy cần phải đoái hoài tới những tự do bất khả nhượng của chúng ta nếu họ cho rằng độ khát khao tự do của chúng ta thuộc loại chẳng cao lắm.

© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

———

Bạo loạn xảy ra tại trại giam Xuân Lộc, nơi giam giữ tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức

 30-6-2013

Theo nguồn tin Dân Luận vừa nhận được, lúc 7h sáng ngày 30/6/2013 đã xảy ra bạo loạn toàn phân trại tại Phân trại 1, trại giam Xuân Lộc, Đồng Nai.

Nguyên nhân vụ bạo loạn là vì những tù nhân ở đây thường xuyên bị đánh đập, chế độ ăn uống bị cắt xén, v.v…

Hiện tại các tù nhân đang giữ làm con tin là ông Hồ Phi Thắng, giám thị trại Xuân Lộc phía bên trong.

Đây cũng là nơi giam giữ nhiều tù nhân lương tâm, bao gồm Trần Huỳnh Duy Thức, Việt Khang, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Phan Ngọc Tuấn, Nguyễn Ngọc Cường…

Những người tù đã dùng số điện thoại: 0962467908 để liên lạc ra ngoài. Số điện thoại này sau đó đã bị cắt.

Sau khi bạo loạn diễn ra, các tù nhân đã làm chủ được tình hình bên trong, công an chưa xâm nhập vào được. Các blogger bên ngoài đang thúc giục truyền thông lên tiếng sớm về vụ việc để hỗ trợ và tránh cho các tù nhân bị đàn áp.

Tin mới nhất cho biết công an đã chặn các ngả đường tới trại giam Xuân Lộc.

Dân Luận sẽ tiếp tục theo dõi và đưa tin về vụ việc này.

Posted in Dân Chủ và Nhân Quyền, Trại Tù | Leave a Comment »

►Vàng rớt giá xuống còn 1200 dollars 1 lượng/ Oz, giá vàng đã liên tục giảm 25% trong vòng 12 tháng qua.

Posted by hoangtran204 trên 27/06/2013

 

Giá vàng hạ thấp xuống còn 1200 đô la/1 lượng anh (1 Oz)  vì mọi người đang lo lắng rằng Ngân Hàng Dự trữ Liên Bang (FED) Mỹ SẼ  ngưng tung 80 tỷ đô la hàng tháng để trợ giúp nền kinh tế Mỹ vì họ cho rằng kinh tế Mỹ đã và đang phục hồi.

Trong vòng 12 tháng qua, có lúc giá vàng lên gần 1700 đô la Mỹ/ 1 lượng anh (1 Oz= 0,3048 gram). Đầu tháng 1-2013, giá vàng là 1664; và mới tháng trước, giá vàng là 1376 đô; hôm nay, giá vàng còn 1204 đô la/1 lượng anh.  Trong vòng 52 tuần lễ vừa qua, giá 1 lượng vàng đã giảm là 24%, giá 1 lượng bạc (silver) giảm 30%.

(http://www.24hgold.com/english/gold_silver_prices_charts.aspx?money=USD)

Giá vàng hạ thấp bất chấp người Ấn độ và Trung Quốc vẫn đang có nhu cầu sắm sửa tư trang gia tăng mạnh nhất thế giới. Giá vàng hạ thấp vì mọi người đang lo lắng rằng Ngân Hàng Dự trữ Liên Bang (FED) Mỹ SẼ  ngưng tung 80 tỷ đô la hàng tháng để trợ giúp nền kinh tế Mỹ vì họ cho rằng kinh tế Mỹ đã và đang phục hồi.

(http://news.yahoo.com/gold-below-1-200-headed-010920297.html)

Thực tế hiện nay, kinh tế Mỹ vẫn còn đang yếu kém. Các hãng xưởng vẫn chưa có đơn đặt hàng, và hăm dọa bớt giờ làm việc của công nhân, hoặc sẽ sa thải bớt công nhân vì thiếu việc làm. Hàng tồn kho dự trữ nhiều. Các đơn vị quân đội Mỹ sẽ giảm bớt quân số 80.000 người, từ đây cho đến năm 2014. Cơ quan bảo vệ môi trường đang giảm bớt 77.000 người từ mấy tháng qua cho đến cuối năm nay. Các chi phí bảo hiểm và dịch vụ bảo hiểm sức khỏe trong các chương trình Medicaid và Medicare đang cắt giảm với mức chưa từng thấy. Các chương trình xã hội của các tiểu bang cũng co cụm lại.

http://news.yahoo.com/gold-below-1-200-headed-010920297.html

http://www.24hgold.com/english/gold_silver_prices_charts.aspx?money=USD

@Trần Hoàng 2013

 

Posted in Uncategorized | Leave a Comment »

►Từ đại hội đảng lần 3 đến Đại Hội Đảng lần thứ 11…Các kế hoạch đề ra năm 1971, 42 năm sau vẫn chưa thực hiện được!

Posted by hoangtran204 trên 27/06/2013

Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng vào tháng 3/ 1971, đã xác định công nghiệp hóa XHCN của chúng ta.  Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại”…

Tại Đại hội IV của Đảng (1976), chính sách thì đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”. Trích  Đường Lối Cách Mạng

.

.

42 năm sau, sự thật ở nơi đây…

“…ngành cơ khí – một trong bốn ngành công nghiệp mũi nhọn – chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp…” 

“Cần nhìn thẳng vào thực tế là chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm cụ thể gì trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, kể cả con ốc hay cái đinh vít, ngoài việc làm rất tốt là nhập linh kiện về lắp ráp!”.

2013

Công nghiệp mũi nhọn hay… lắp ráp?

26/06/2013

TT – “10 năm trước tôi đã ngồi ở những phòng họp tương tự thế này để bàn về việc phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn của thành phố, giờ đây vẫn mục tiêu này chúng ta đang loay hoay đi tìm sản phẩm công nghiệp đặc trưng”.

Sau gần 10 năm triển khai, Cụm côn

Đó là phát biểu của ông Từ Minh Thiện, đại biểu HĐND TP.HCM, về thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn tại buổi làm việc mới đây với Sở Công thương TP.

Theo các chuyên gia, dù được xem là ngành mũi nhọn, được kỳ vọng là đòn bẩy thúc đẩy các ngành khác tăng tốc, nhưng đến nay ngành công nghiệp trên địa bàn vẫn chưa tạo ra được bước đột phá nào. Trong đó, ngành cơ khí – một trong bốn ngành công nghiệp mũi nhọn – chủ yếu vẫn là gia công, lắp ráp…

Có tiếng nhưng không có miếng

Ông T. – giám đốc Công ty chế tạo máy TT, một trong những doanh nghiệp chế tạo máy dược phẩm hàng đầu hiện nay tại TP.HCM – thừa nhận: “Cần nhìn thẳng vào thực tế là chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm cụ thể gì trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, kể cả con ốc hay cái đinh vít, ngoài việc làm rất tốt là nhập linh kiện về lắp ráp!”.

Thành lập từ năm 1998 với số vốn đầu tư ban đầu hơn 2 tỉ đồng cùng vài chục công nhân, hiện TT đã có trong tay hơn 200 lao động với nhiều thiết bị chuyên dụng được đầu tư hơn 100 tỉ đồng ở nhà xưởng khá khang trang.

“Hiện chỉ có hai doanh nghiệp cùng thời với tôi là còn hoạt động. Những doanh nghiệp thành lập sau này cũng xuất thân từ TT, nên xét về việc phát triển gần như không có” – ông T. nói.

Theo ông T., để sản xuất được máy sấy tầng sôi tạo hạt (một thiết bị trong quá trình bào chế thuốc), đơn vị này phải nhập tất tần tật, chẳng chừa gì. Chỉ cho chúng tôi xem các miếng đệm làm bằng silicon có tác dụng bịt kín các chi tiết khi lắp ráp máy, ông T. ngao ngán nói: “Ngay cả thứ này mà cũng phải nhập vì ở VN chẳng ai sản xuất cả!”.

Ông T. thừa nhận dù trên từng sản phẩm xuất khẩu đều có dòng chữ “made in Vietnam”, nhưng “chỉ có công lao động lắp ráp và lựa chọn loại thiết bị, linh kiện… mới thật sự là của TT”!

Thương hiệu Samco của Tổng cơ khí Giao thông vận tải Sài Gòn cũng vậy. Có trong tay xí nghiệp cơ khí ôtô và cơ khí chuyên dụng, nhưng Samco cũng chỉ làm giàn khung bên ngoài, táplô và trang trí nội thất bên trong. Còn các thiết bị quan trọng như thanh truyền lực, bộ giảm tốc, hộp số, động cơ…đều phải nhập khẩu do trong nước chưa sản xuất được.

“Dù tỉ lệ nội địa hóa đã đạt 43%, trong đó có một số bộ phận, linh kiện mua từ trong nước như ăcquy, dây điện…, nhưng phần lớn giàn khung sắt xi bên ngoài chúng tôi vẫn phải nhập nguyên liệu rồi mới chế tạo khung sườn xe được” – ông Nguyễn Hồng Anh, tổng giám đốc Samco, nói.

Năm 2012, Samco sản xuất 420-450 xe buýt và xe khách các loại, đáp ứng khá khiêm tốn so với nhu cầu hàng ngàn chiếc/năm của chủng loại xe này ở thị trường nội địa.

Cái khó bó cái khôn

“Nếu nói về tên gọi cho từng sản phẩm, cái gì chúng ta cũng… có mặt. Nhưng sản phẩm làm ra có đáp ứng được nhu cầu thị trường hay không, chứ khoan nói cạnh tranh với các nước lại là một vấn đề khác” – ông Đỗ Phước Tống, phó chủ tịch Hội Cơ khí TP.HCM kiêm giám đốc Công ty cơ khí Duy Khanh, nhận xét.

Trong nhóm bốn ngành công nghiệp trọng yếu gồm các ngành cơ khí chế tạo, hóa chất – cao su – nhựa, chế biến lương thực – thực phẩm, điện tử – công nghệ thông tin và dệt may – da giày đã được TP.HCM quy hoạch đầu tư và phát triển, nhưng đến nay để có thể “điểm mặt đặt tên” sản phẩm có khả năng cạnh tranh trong từng nhóm ngành nói trên là một điều khó khăn.

Mặc dù ngành cơ khí chế tạo, cơ khí công nghệ cao được TP.HCM đặt mục tiêu hướng tới sẽ là ngành tạo ra giá trị gia tăng cao với công nghệ hiện đại, nhưng thực tế số doanh nghiệp đầu tư vào ngành cơ khí theo hướng sản xuất chuyên nghiệp rất ít.

Theo ông Tống, nguyên nhân chính là do phần lớn doanh nghiệp sản xuất cơ khí hiện nay đầu tư mang tính tự phát, vốn ít, trong đó hơn 80% là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mà khi ít vốn thì không thể đầu tư máy móc thiết bị chuyên dụng, không thể làm ra được sản phẩm chất lượng đồng nhất nên lại rơi vào vòng luẩn quẩn: gia công, lắp ráp và sửa chữa, dẫn đến giá trị gia tăng trong sản xuất rất thấp. “Thành phố vẫn có doanh nghiệp cơ khí hoạt động. Nhưng để tìm cho ra doanh nghiệp đầu tư chuyên sâu, làm đúng chuyên ngành, có sản phẩm được trong giới lẫn khách hàng công nhận đạt chất lượng, thật tình không quá một bàn tay” – ông Tống đăm chiêu nói.

Theo ông T., chính sách thuế quá bất hợp lý đã giết chết ngay từ ban đầu ý định đầu tư của doanh nghiệp. “Chẳng ai muốn lao đầu vào đá để chết khi nhập khẩu linh kiện về sản xuất lắp ráp lại đắt hơn nhập khẩu nguyên chiếc về kinh doanh” – ông bức xúc. Theo ông T., sản phẩm của doanh nghiệp làm ra cũng bị cạnh tranh gay gắt từ máy nhập khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật… “Giá bán của TT luôn cao hơn hàng nhập từ Trung Quốc nên dù sản phẩm làm ra đạt chứng nhận chất lượng tiêu chuẩn xuất khẩu sang châu Âu, được doanh nghiệp nước ngoài đặt hàng tới tấp, nhưng doanh nghiệp dược phẩm trong nước không mặn mà” – ông T. lắc đầu nói.

Theo ông Nguyễn Hồng Anh, thay vì đầu tư hết sức dàn trải vào cả bốn nhóm ngành công nghiệp trọng yếu thì “UBND thành phố nên tập trung đầu tư tổng lực vào từng ngành, với từng giai đoạn hết sức cụ thể”. Nếu làm được điều này, theo ông Anh, may ra TP.HCM mới có được một sản phẩm công nghiệp “nên hình nên dáng”, có nội lực thật sự. “Chứ cứ để như lâu nay, nhìn lại thành phố cái gì cũng có, mà có được cái gì cụ thể đủ sức cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu thì vẫn chỉ biết loay hoay đi tìm” – ông Anh nói.

 

Cách nay gần 10 năm, dự án xây dựng cụm công nghiệp cơ khí ôtô theo chủ trương của UBND TP, do Công ty CP Hòa Phú (gồm ba cổ đông là Samco, Sinvesco và CII) làm chủ đầu tư, đã được triển khai. Cụm công nghiệp rộng 100ha này từng được kỳ vọng trở thành “trung tâm sản xuất linh kiện ôtô; đóng mới, sửa chữa, lắp ráp ôtô; thiết kế và đóng mới các phương tiện cơ giới đường bộ, là nơi thu hút các doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước của lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ…”.Thế nhưng đến nay dự án này vẫn còn ngổn ngang dù đã bỏ hơn 200 tỉ đồng để đền bù giải tỏa.“Từng có doanh nghiệp Nhật muốn đầu tư sản xuất túi khí ôtô tại cụm công nghiệp này nhưng bây giờ họ đã đi sang Thái Lan. Thủ tục chuyển đổi cụm công nghiệp thành khu công nghiệp với nhiều hạng mục liên quan vẫn còn vướng mắc, thành ra…” – ông Hồng Anh nói.

Trần Vũ Nghi 

http://tuoitre.vn/Kinh-te/555894/cong-nghiep-mui-nhon-hay–lap-rap.html

———

Posted in Hội Nghị Thành Đô 1990 | Leave a Comment »

►Trận chiến về quyền lực

Posted by hoangtran204 trên 27/06/2013

Trận chiến về quyền lực

Nguyễn Hưng Quốc

nguồn VOAtiengviet.com 

27-6-2013

Trong bàiQuyền lực”, khi định nghĩa quyền lực là khả năng chi phối, khống chế và sai khiến người khác, tôi chỉ xuất phát từ góc độ chính trị, lại là thứ chính trị học truyền thống, tương đối đơn giản. Thật ra, khái niệm quyền lực còn phức tạp hơn thế rất nhiều.

Nói đến quyền lực, những người quen đọc triết học và lý thuyết văn học hậu hiện đại hẳn sẽ nghĩ ngay đến Michel Foucault (1926-84), người nổi tiếng về việc đưa ra một cách hiểu mới về khái niệm quyền lực, một cách hiểu rất có ảnh hưởng trong giới nghiên cứu không những về triết học hay văn học mà còn cả về tâm lý học, xã hội học, chính trị học và rất nhiều lãnh vực khác.

Theo Foucault, quyền lực không phải chỉ là một cấu trúc hay một tác tố (agency) bao gồm những gì mà một số người có khả năng khống chế, cưỡng bức hay ra lệnh người khác theo cách hiểu cũ. Theo ông, quyền lực có mặt ở mọi nơi (1), nó phân tán hơn là tập trung, nó nhập thể hơn là sở hữu, nó thuộc về diễn ngôn hơn là thuần túy có tính chất cưỡng bức.

Thuộc về diễn ngôn (discourse), quyền lực gắn liền với kiến thức (bởi vậy, ông hay dùng chữ “quyền lực/kiến thức” – power/knowledge): Mỗi xã hội có một “chế độ chân lý” (regime of truth) hay một thứ chính trị chung về chân lý (general politics of truth), nghĩa là một thứ diễn ngôn có chức năng quy định thế nào là đúng và thế nào là sai, thế nào là thật và thế nào là giả, thế nào là tốt và thế nào là xấu, rồi dựa trên những tiêu chuẩn ấy, nó quy định những gì nên làm và những gì không nên hoặc không được làm, cuối cùng, dựa theo đó, nó đánh giá và đưa ra những cách thưởng phạt khác nhau. Cái “chế độ chân lý” ấy được xác lập bằng các diễn ngôn khoa học và các cơ chế sản xuất các diễn ngôn ấy và sau đó, được gạn lọc, phổ biến và củng cố bằng giáo dục cũng như hệ thống truyền thông (2).

Cái “chế độ chân lý” ấy không nhất thiết bất biến và cũng không chỉ được áp đặt từ trên xuống dưới. Nếu “quyền lực đến từ mọi nơi”, như Foucault có lần nhấn mạnh, quyền lực/kiến thức cũng có thể đến từ những người bị trị. Mọi người đều có thể tham gia vào “trận chiến cho chân lý” (battle for truth), tuy nhiên, theo Foucault, cái gọi là “chân lý” ở đây không phải là các sự thật được khám phá mà chủ yếu là các quy định theo đó người ta phân biệt cái đúng và cái sai và những hệ quả quyền lực gắn liền với những cái được gọi là đúng ấy. Nói cách khác, đó là cuộc đấu tranh về tình trạng của chân lý và về vai trò kinh tế cũng như chính trị của cái gọi là chân lý (3).

Áp dụng lý thuyết của Foucault vào hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay cuộc chiến đấu cho tự do và dân chủ thực chất là một cuộc chiến về quyền lực, để giành lại những quyền (rights) căn bản của dân chúng. Nhưng nói đến cuộc chiến quyền lực, không nên chỉ nghĩ đến các cuộc cách mạng bằng vũ trang hay bạo lực hay, tiêu cực và nhẹ nhàng hơn, các cuộc biểu tình hay tuyệt thực, thậm chí, không phải chỉ ở các bài tố cáo hay phê phán các sự lợi dụng quyền lực (bao gồm cả tệ nạn tham nhũng) hay hành xử quyền lực một cách sai lầm của nhà cầm quyền. Cuộc chiến quyền lực còn diễn ra một cách âm thầm trong việc xác định các khái niệm để định hướng cách suy nghĩ và đánh giá của mọi người về những vấn đề quan trọng của đất nước.

Về phương diện này, nên lưu ý, giới cầm quyền Việt Nam, hay đảng Cộng sản nói riêng, rất có ý thức. Họ vận dụng nó một cách triệt để và nhất quán suốt từ khi mới được thành lập. Họ có tham vọng viết lại từ điển tiếng Việt, ở đó, họ định nghĩa lại rất nhiều từ liên quan đến đời sống chính trị. Với họ, những chữ như “tự do”, “dân chủ”, “cách mạng”, “giải phóng”, “bình đẳng”, “tiến bộ”, “lạc hậu”, “trí tuệ”, “nhân dân”, “đất nước”, “cải tạo”, v.v. mang ý nghĩa khác hẳn. Bởi vậy, cãi với họ ở từng điểm một là một công việc vô ích. Vấn đề cần thiết hơn là vạch trần ra những âm mưu xuyên tạc chữ nghĩa, và từ đó, khung khái niệm của họ, và thay thế chúng bằng những cách hiểu mới thích hợp và chính xác hơn.

Một ví dụ cụ thể nhất là chữ yêu nước.

Trước, với người Việt Nam, yêu nước là quan tâm đến đồng bào, gắn bó với vận mệnh dân tộc và cương quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền cũng như sự phồn thịnh của đất nước. Thời Pháp thuộc, đảng Cộng sản, khi định nghĩa khái niệm yêu nước, một mặt, tập trung vào khía cạnh độc lập, mặt khác, nhấn mạnh vào yếu tố giai cấp, đặc biệt nhắm vào nông dân và vấn đề đất đai. Trong chiến tranh Nam Bắc, từ 1954 đến 1975, đảng Cộng sản lại tập trung vào mục tiêu thống nhất, nghĩa là yếu tố lãnh thổ và chủ quyền. Sau năm 1975, họ lại định nghĩa: yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, ở đó ý thức hệ nổi trội hơn tinh thần dân tộc. Sau năm 1990, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Nga và Đông Âu, chiêu bài chủ nghĩa xã hội không còn thuyết phục nữa, họ dần dần quay trở lại với yếu tố dân tộc: yêu nước, với họ, là bảo vệ những thành quả của cuộc cách mạng kéo dài cả hơn nửa thế kỷ trong việc giành lại độc lập và thống nhất đất nước.

Thế nhưng, gần đây, khi âm mưu bành trướng lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc càng ngày càng lộ liễu, khi Việt Nam đang phải đối diện với ý đồ lấn chiếm biển đảo của Trung Quốc, đảng Cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam, một lần nữa, lại thay đổi nội dung khái niệm yêu nước. Yêu nước, với họ, bây giờ chỉ còn ba nội dung chính: Một, tập trung vào sự phát triển kinh tế; hai, giữ gìn sự ổn định chính trị (nghĩa là duy trì bộ máy lãnh đạo tuyệt đối của đảng); và ba, quan trọng nhất, tin tưởng và phó thác toàn bộ vận mệnh đất nước cho đảng! Với cách hiểu “mới” như thế, lòng căm thù giặc cũng như ý chí tranh đấu để bảo vệ độc lập và chủ quyền lại bị xem là… phản quốc, và những người có những biểu hiện ấy một cách công khai bị đối xử như là kẻ thù!

Cũng vậy, gần đây, họ muốn sử dụng cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ở Quốc Hội để chứng minh Việt Nam cũng có dân chủ, thậm chí, “dân chủ gấp vạn lần” các nước tư bản khác (theo lời bà Nguyễn Thị Doan, phó Chủ tịch nước) vì trên thế giới không ở đâu có hình thức bỏ phiếu như vậy (theo lời Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội). Ở đây, người ta thu hẹp ý nghĩa dân chủ vào việc bỏ phiếu mà cố tình lờ đi ba vấn đề quan trọng và căn bản trước, trong và sau cuộc bỏ phiếu ấy: Một, các đại biểu Quốc Hội có thực sự là đại biểu của dân chúng? Hai, việc chia thang điểm thành ba: tín nhiệm cao/tín nhiệm/tín nhiệm thấp có thực sự khoa học và có ý nghĩa?

Và ba, cái gì xảy ra sau cuộc bỏ phiếu ấy? Những người bị tín nhiệm thấp sẽ ra sao? Sẽ bị cách chức hay vẫn tiếp tục ngồi ì ra đó đến cuộc bỏ phiếu lần tới và lần tới nữa nữa?

Vân vân.

Nhìn mọi âm mưu tuyên truyền tại Việt Nam từ góc độ như thế, chúng ta sẽ thấy ngay đâu là tâm điểm của cuộc đấu tranh quyền lực tại Việt Nam hiện nay.

***

Chú thích:

1. Michel Foucault (1998), The History of Sexuality: The Will to Knowledge, London: Penguin, tr. 63.
2. Michel Foucault (1980), Power/Knowledge (Colin Cordon biên tập), New York: Pantheon Books, tr. 131.
3. Như trên, tr. 132.

*phản hồi của bạn đọc VOAtiengviet.com

1. bởi: Bà Già Trầu

26.06.2013 19:19
Tâm điểm là đảng CS vẫn tiếp tục lừa bịp nhân dân VN để cầm quyền. Một mặt lừa bịp, một mặt dùng bạo lực đàn áp bất cứ ai nhìn ra và nói lên sự lừa bịp ấy, kể cả nhìn ra sự hèn hạ đối với TQ.
Đảng CS lừa bịp, nhà nước lừa bịp, và Quốc Hội lừa bịp, họ cùng thống nhất việc lừa bịp.
2.

bởi: Lê Bình Nam

26.06.2013 18:05
Trả lời
Khi người dân không có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp…đặc biệt là quyền thành lập chính đảng của mình thì tất cả mọi quyền công dân (citizen rights) đến quyền con người (human rights) chỉ là bánh vẽ.Các chế độ độc tài toàn trị đều sống dựa trên dối trá và bạo lực. Chế độ độc tài toàn trị cộng sản ở VN là một điển hình. Dối trá này đẻ dối trá khác, sinh ra hết nghịch lý này đến nghịch lý khác…Đến nỗi, một ông cựu CT QH, Uv Bct Nguyễn Văn An dù đã nghĩ hưu nhưng cũng không thể nào chịu đựng nổi áp lực của chính lương tâm mình, đã phát biểu: Đảng là vua tập thể, đã sinh ra một cơ chế đã mắc lỗi hệ thống! Vì đồng thời với ông, cựu Thủ Tướng Phan Văn Khải cũng từng tuyên bố: Trên bảo dưới không nghe, một trăm đồng nhà nước chi ra thì bị ăn cắp hết 50 đồng; Tbt đảng, Lê Khả Phiêu xác định: Tham nhũng đã trở thành ung thư; CT Nước Trương Tấn Sang thì giả vờ vuốt ve công luận hay thật sự chống tham nhũng thì còn phải chờ xem, nhưng cũng đã thấy rõ khi phát biểu: Tham nhũng như một bầy sâu làm chết cái đất nước này…

Cơ chế đã mắc lỗi hệ thống! Do đó nó chỉ sống bằng sự tham ô, nghịch lý và thoi thóp với những tha hóa tận cùng: vờ vịt, lạc điệu, chẳng có tiêu chuẩn phân định đúng sai…và tồn tại trước mắt chỉ bằng còng hai số 8: bạo lực!

Vì chỉ dối trá và bạo lực nên các chế độ độc tài toàn trị đều rất sợ diễn biến hoà bình. Dân không có súng đạn dùi cui và còng…nhưng dân sẽ quyết định tất cả bằng con đường hòa bình. Không cho dân ăn nói, nhưng làm sao cấm được lòng dân.

Trò hề tín nhiệm cao – tín nhiệm vừa – tín nhiệm thấp chỉ thêm phung phí, tốn hao tiền bạc của dân nhưng sẽ không bao giờ gạt được dân.

Dân là nước. Ý dân là ý Trời!

3.

Posted in Chinh Tri Xa Hoi | Leave a Comment »

►HỒI KÝ của Một Người Hà Nội 1954…

Posted by hoangtran204 trên 23/06/2013

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI

Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc. 

Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi, “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à…?” 
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi, …nữa là bác!”

Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.

Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt . Thời gian rồi cũng hiểu nhau. 

Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư. 

Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài. 

Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là …Vẹm!

Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư. 

Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất. Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam! 

Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học. 

Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn … 

Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi, “Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!” Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: đấu tranh, cảnh giác, căm thù và … tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép). 

Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”. Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng. 

Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!” Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. 

Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo…cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học. Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của tôi! 

Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu”, …đi tù! 

Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại”. 

Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội. Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.

Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”. 

“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể”. Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa. 

Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách mạng”. 

Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”!

Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự tử. 

“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!” 

Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu …! 

Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ . Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân …” là vậy! 

“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng sản”. 

“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… nói dối! Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ. 

Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you”. Ở miền Bắc, thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “công tác” thế nào? Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “…rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng… các nước anh em!”

Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta tươi đẹp”. 
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất”! Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác”. Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy xụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”! 

Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước. 

Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!” 

Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm. 

Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.

Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không có ngày về…! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ!

Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng … nói dối! 

Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải phòng, vùng biển. 

Hải phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn. 

Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.

Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!” 

“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ…!. Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”

Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi….”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên. 

Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa. 

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”. Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ! 

Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản. 

Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”. Chế độ Việt cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”. 

Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ …! 

Tigon, nhận từ tác giả : tự do Nguyễn Văn Luận

http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=2520&page=154

*Sau khi Bác vả Đảng vào tiếp thu Hà Nội vào năm 1954, thì tất cả những gì đã xảy ra ở Hà Nội như: tịch thu nhà cửa, bắt những công chức Hà Nội đưa đi tù cải tạo, đốt hết sách báo xuất bản từ trước 1954, cải tạo công thương nghiệp hay tịch thu tài sản, đưa những người dân Hà Nội đi kinh tế mới để chiếm đoạt các căn nhà mặt tiền và cấp phát cho cán bộ cao cấp của cách mạng được ở…đều được lập lại sau khi cộng sản chiếm được Miền Nam 30-4-1975.

Đặc biệt, ông Đỗ Mười, người thực hiện kế hoạch cải tạo tư sản ở Hà Nội năm 1954, đã được cấp trên giao cho nhiệm vụ cải tạo tư sản ở Sài Gòn năm 1978…Cuộc cải tạo này thực chất là cướp hết nhà cửa đất đai, hàng hóa, kho bãi, hãng xưởng… của các nhà tư sản miền Nam,  cào cho nghèo bằng miền Bắc…còn tất cả các tài sản này sau đó được cán bộ cao cấp chia chát cho nhau…gọi là bán hóa giá nhà cửa…và cả bọn họ tự  gọi nhau là chính quyền cách mạng! 

Đỗ Mười và

►Chiến dịch X-3: đánh tư sản thương nghiệp 1978

Posted in Hồi Ký | 4 Comments »

►Sự đổi giọng hay đã thực sự ăn năn hối lỗi qua bài thơ “Sự tầm thường” của Nguyễn Khoa Điềm

Posted by hoangtran204 trên 22/06/2013

 

Nguyễn Khoa Điềm

Tôi có ý định bình tổng hợp một số bài thơ gần đây nhất, Nguyễn Khoa Điềm đã viết sau thời gian hết đường quan lộ về làm thường dân – trong đó đặc biệt là bài “Đất nước những tháng năm thật buồn”. Nhưng khi đọc lại “Sự tầm thường”: Muốn bình cho trọn ý thì phải phân tích theo suốt dọc bài thơ, gộp cả các tình thơ khác nữa thì sẽ lan man rất dài. Bởi vậy, mới xin bình luận riêng về bài “Sự tầm thường” ấy trong trang này – Còn “Đất nước những tháng năm thật buồn” gộp với số bài thơ khác, tôi sẽ giành để viết sau.

Nói về bài “Sự tầm thường” – Bắt đầu vào thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:

Bây giờ ta có thể bầu bạn với sự tầm thường
Vợ chồng sớm chiều treo mình lên cái đinh mắc màn…

Hình ảnh “vợ chồng sớm chiều…” ở đây là sau khi NKĐ đã bị thất sủng buộc phải rời Ban bí thư Trung ương và Bộ Chính trị… về sống nơi thôn hương với gia đình. Dầu tác giả có”treo mình” lên cái đinh mắc màn, mắc áo hoặc trên trần nhà, gì gì đi nữa… nhưng với người vợ má kề gối ấp của mình, thì đáng lẽ đó vẫn phải là hình ảnh đẹp, thân thương đời thường của nhân dân, năm xưa quen chốn quan trường ông không thể nào cảm thấy sự quý giá đó. Bởi vậy, không nên dùng chữ “sự tầm thường” đánh đổ đồng nháo nhào như ở trong bài thơ này .

Đọc tiếp »

Posted in Uncategorized | Leave a Comment »

Làng Vô Thần…

Posted by hoangtran204 trên 22/06/2013

LÀNG VÔ THẦN 

Sau bốn mươi lăm năm xa xứ, ông trở về thăm làng lần đầu. Nghe nói ông là Việt kiều Mỹ rất giàu và đang có ý định làm từ thiện lớn nên người ta rất quan tâm và chào đón thái quá, đôi khi khiến ông thấy bất tiện.

Ngay trong buổi tiếp đầu tiên do trưởng làng tổ chức, có cả bí thư chi bộ và đại diện thanh niên, phụ nữ, ông bí thư đảng nói không úp mở:

“Trước làng ta có Chùa Mít. Chắc bác còn nhớ? Chiến tranh phá mất rồi. Mà đền chùa là cái mặt văn hóa của làng. Giờ có điều kiện xây lại thì tốt quá.”

Ông còn nhớ không à? Vì nó mà ông phải xa làng chừng ấy năm. Số là thời ấy, tức giữa những năm sáu mươi, ông là bí thư xã đoàn. Một hôm, người ta đi họp trên huyện về, giao cho thanh niên phá Chùa Mít. “Làng đã lên hợp tác xã, ruộng đất và tư liệu sản xuất trở thành của chung. Nay đến lượt xây dựng văn hóa mới. Nhà nước vô sản. Làng phải là làng vô thần. Không thể để cái chùa mê tín dị đoan ấy đứng mãi thế được!” “Nhưng đó là chỗ lễ bái, tín ngưỡng của dân làng?” ông rụt rè lên tiếng. “Vả lại, có để cũng chẳng hại gì”. “Không được. Đồng chí nói thế là chưa quán triệt tinh thần của trên. Người cộng sản vô thần, nên không thờ bất kỳ ai ngoài các lãnh tụ của mình!”

Một tuần sau ông lên đường vào Nam, dẫu không thuộc diện nhập ngũ vì là cán bộ cốt cán và là con một trong gia đình. Trước đó mấy ngày người ta bắt đầu đập phá Chùa Mít, có cả lễ ra quân và cờ trống rầm rộ. Ở mặt trận Tây Nam năm 1972 ông bị quân Sài Gòn bắt nhưng trốn được qua Cămpuchia, rồi Thái Lan và năm 76 thì được sang Mỹ định cư. Trước khi có thư từ Mỹ về, mọi người ở làng nghĩ ông đã chết, nhưng do không xác định được cụ thể, người ta không coi ông là liệt sĩ, giờ thì đương nhiên là một tên đào ngũ phản bội. Còn nay đổi mới, trong con mắt của mọi người, ông là Việt Kiều yêu nước.

Bố mẹ chết từ lâu, bà con thân thích hầu như chẳng còn ai nên ông ở trong nhà nghỉ mới xây của xã bên, rất gần làng. Ở đấy cậu nhân viên nháy mắt bảo ông có cần gì nữa không. Mấy ngày sau ông còn nghe nói làng có dịch vụ tươi mát, đến mùa gặt mới phải thanh toán. Bằng thóc.

Làng ông bây giờ quả nhiều cái mới. No đủ hơn. Nhiều nhà ngói, thậm chí có vài nhà hai ba tầng, bắt chước kiểu biệt thự Pháp nhưng quét vôi màu lòe loẹt. Đường làng và các ngõ ngách đều được đổ xi măng. Đình làng xưa cổ kính giờ được thay bằng Nhà Văn Hóa mái bằng mái lợp fibrô xi măng. Trên nền Chùa Mít đầu làng cỏ mọc um tùm, lổn nhổn những phiến đá lớn người ta không bê đi được. Có cả một khối đá tròn, phần sót lại của bức tượng Phật, nay làm nơi ngồi tình tự của đám thanh niên mới lớn. Dân làng bây giờ cũng khác lắm. Khác cả cách ăn mặc, đi đứng và ăn nói. Có vẻ như hiện đại hơn, tốt hơn, thế mà ông vẫn cảm thấy trơ trơ thế nào, cứ như thiếu một cái gì đó.

Ở thêm mấy ngày nữa, ông hiểu cái đó là gì. Khuôn mặt của làng. Thì ngay từ đầu người ta chẳng bảo ông: “Đền chùa là cái mặt văn hóa của làng” đó sao? Chính xác hơn là thiếu hồn. Các tấm áp phích to và những câu khẩu hiệu chính trị viết cũng như nói không lấp nổi đời sự trống vắng tâm linh mà bây giờ đã không còn chỗ thể hiện. Trước kia ngày rằm, ngày đầu tháng người ta vào chùa thắp hương, sắm lễ. Giờ chỗ lui tới là quán rượu của mụ Bốn, người kiêm cả nghề ghi số đề cho mấy đại gia ngoài phố huyện.

Ông đi một vòng quanh làng với tâm trạng buồn buồn khó tả, rồi mỏi chân, ngồi xuống tảng đá, phần còn lại của Đức Phật trên nền Chùa Mít.

Mặt trời sắp lặn. Một chiếc Công Nông đang chạy, kêu tành tạch từng tràng như tiếng súng đại liên. Kế đến là chiếc xe tải loại lớn chạy về phía xã trên. Mấy bà đi làm về, chiếc gánh tòng teng trên vai. Trai làng thì xe máy vù vù.

Vậy là cái chủ trương xây làng vô sản đã không thành. Nhưng làng vô thần thì thành. Không chỉ không thờ Phật, giờ người ta dường như cũng chẳng thờ các lãnh tụ cộng sản, không cần biết ai, sợ ai ngoài cái dạ dày của mình. Thêm một cái “vô” nữa là vô danh. Trước xã ông có bảy làng với bảy cái tên dung dị dễ thương từ xa xưa, sau khi thành lập hợp tác xã, chúng được thay bằng các con số đội sản xuất. Làng ông được gọi là Đội Bảy. Hợp tác xã giải tán từ lâu mà cái tên khô khốc, vô hồn ấy vẫn còn đến ngày nay.

Ông ngồi lặng người hồi lâu như thế giữa nền Chùa Mit ở làng Đội Bảy của ông. Giờ người ta xin ông tiền dựng lại nó, tức là để phục lại phần nào thần linh và “mê tín dị đoan”, cái người ta một thời dứt khoát phá bỏ và đẩy ông ra nơi súng đạn. Nhưng liệu có chùa rồi, những cái ấy có trở lại không, khi tư tưởng vô thần và những người nghĩ ra chúng vẫn còn?

Trời tối lúc nào không biết. Có ai đó đang lại gần. Ông giáo Hoàn. Ông đang dắt con nghé con từ Đồng Chùa về. Ông giáo trạc tuổi ông, về hưu đã lâu và trước cùng học trường làng. Hôm mới về hai người đã gặp nhau và nói chuyện một lúc. Ông này thời cải cách có bố bị treo cổ oan.

“Vẫn chưa quyết định nên giúp làng xây lại chùa không à?” ông giáo hỏi như đoán được ý nghĩ ông.

“Theo ông thì thế nào?”

“Thì kệ nó. Ai phá, người ấy phải xây lại”.

“Nhưng họ biết lấy đâu ra tiền?”

“Đó là việc của họ. Rồi có ngày người ta sẽ bắt họ chịu trách nhiệm về chuyện này. Không người thì thần linh, mà cũng chẳng lâu nữa đâu. Một lũ ngu dốt và độc ác!”

Ông giáo về hưu nói một cách giận dữ. Rồi ông hạ giọng nói thêm:

“Nếu bác định giúp làng thì làm ơn sửa lại trường cấp một. Bảy tám chục đứa trẻ bị nhét vào môt phòng tranh tre và dột nát như bác thấy. Chứ không thì cái làng này chẳng mấy chốc mà thành vô học.”

Hai hôm sau ông lên đường trở về Mỹ, để lại phía sau khu ngôi làng của ông – vô danh, vô thần và gần như vô học. Có thể cả vô đạo đức và vô văn hóa nữa, dẫu hai đầu làng có hai tấm biến rất to “Làng văn hóa mới”, và nhà nào trong làng cũng có tờ giấy chứng nhận là “Gia đình văn hóa”.

“Hóa ra cái “văn hóa mới” là tập hợp tất cả các cái “vô” ấy lại,” ông nghĩ và khẽ rùng mình.

23. 8. 2011

Thái Bá Tân 

Posted in Uncategorized | Leave a Comment »

►Ngay sau khi ngưng tuyệt thực vì đạt được các yêu sách, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ viết thư cám ơn…

Posted by hoangtran204 trên 21/06/2013

Sau khi bị các blogger vạch ra các thủ thuật dùng video cắt xén hình ảnh và âm thanh, và dùng báo chí cùng đài truyền hình để bôi bẩn cuộc tuyệt thực của Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, công an trại giam đã bí mật mời luật sư Nguyễn Thị Dương Hà họp trong 3 ngày qua, 18-21, và đồng ý xem xét các đơn khiếu nại của Tiến sĩ CHHV.   

Thư cảm ơn của Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ

Theo Bauxite Việt Nam

21-6-2013

Sáng nay 21/6/2013, bà Nguyễn Thị Dương Hà đã gặp được chồng mình, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, tại Trại giam số 5, Thanh Hóa. Bà Dương Hà cho biết do Trại giam số 5 Bộ Công an cuối cùng đã phải ra văn bản giải quyết đơn của anh nên từ 9 giờ sáng hôm nay anh đã kết thúc tuyệt thực. Từ nhà tù, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ gửi thư cảm ơn đến tất cả mọi người đã ủng hộ cuộc đấu tranh của anh.

Bauxite Việt Nam

Tôi là Ts luật Cù Huy Hà Vũ

Thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội

Bị Toà án Tối cao nước CHXHCN Việt Nam kết án 7 năm tù giam và 3 năm quản chế kể từ ngày 05/11/2010 vì “Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo điểm c khoản 1 Điều 88 Bộ luật Hình sự. Tôi luôn khẳng định tôi hoàn toàn vô tội vì tôi luôn đấu tranh vì Công lý, Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam, vì độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bị giam tại B11, phân trại K3, Trại giam số 5-Bộ Công an, nhờ vợ tôi là Nguyễn Thị Dương Hà, kính báo với toàn thể mọi người như sau.

Ngày 27/5/2013, tôi bắt đầu tuyệt thực để phản đối Giám thị Trại giam số 5 Bộ Công an, Lường Văn Tuyến đã bất chấp Hiến pháp, Luật Tố cáo và Luật Thi hành án hình sự cố ý không giải quyết Đơn tố cáo Lê Văn Chiến, cán bộ Trại giam số 5 cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ mặc dù trong văn bản Yêu cầu giải quyết Đơn Tố cáo Lê Văn Chiến, cán bộ Trại giam số 5 cố ý giết công dân Cù Huy Hà Vũ mà tôi đã gửi Giám thi Lường Văn Tuyến ngày 12/5/2013 tôi đã cảnh báo là tôi sẽ tuyệt thực nếu không giải quyết Đơn Tố cáo của tôi.

Sáng 15/6/2013 khi được Đài Truyền hình Việt Nam và một số báo chí khác của Việt Nam hỏi về tình hình tuyệt thực của tôi ngay tại buồng giam tôi, anh Nguyễn Đình Dặm, người bị giam cùng phòng với tôi, đã chỉ vào ảnh của các cháu nội của anh Dặm treo tại buồng giam và nói: “Tôi lấy tính mạng của vợ tôi, của các con tôi và của các cháu tôi ra thề rằng anh Cù Huy Hà Vũ đã không ăn bất cứ miếng nào, không dùng bất kỳ chất dinh dưỡng, chất đạm và thuốc bổ nào ngoài thuốc điều trị bệnh tim và cao huyết áp trong cuộc tuyệt thực hiện nay của anh Cù Huy Hà Vũ. Ngoài ra, nếu tôi nói dối, tôi sẵn sàng chấp nhận bản án 7 năm tù mà tôi đang chấp hành tăng gấp đôi“.

Việc Giám thị Trại giam số 5 Bộ Công an Lường Văn Tuyến cuối cùng đã phải ra văn bản giải quyết đơn của tôi sau khi tôi tuyệt thực 25 ngày là thắng lợi của Công lý, là thắng lợi bước đầu của việc đấu tranh của tôi và của toàn thể người Việt Nam trong và ngoài nước vì Công lý, Dân chủ và Nhân quyền và đó cũng là Thắng lợi của toàn thể người Viêt Nam trong và ngoai nước, của chính phủ Hoa Kỳ, chính phủ của 27 nước thuộc liên minh Châu Âu, chính phủ Australia, chính phủ Canada, chính phủ Neuziland và chính phủ các nước khác và của các tổ chức Quốc tế và mọi cá nhân đã ủng hộ tôi quyết liệt, của những người đã tuyệt thực để đồng hành với tôi trong cuộc đấu tranh chính nghĩa này của tôi và của toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung trong cuộc tuyệt thực vừa qua của tôi tại Trại giam số 5 Bộ Công an nói riêng.

Một lần nữa, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của tôi đến toàn thể nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước đến tất cả các Chính phủ, các tổ chức quốc tế và cá nhân trên thế giới đã ủng hộ tôi quyết liệt và đến những người đã tuyệt thực để đoàn kết với tôi trong cuộc tuyệt thực vừa qua của tôi và tôi hoàn toàn tin tưởng rằng tôi, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ quyết liệt và chí tình ấy trong cuộc đấu tranh của tôi và toàn thể nhân dân Việt Nam vì Công lý, Dân chủ và Nhân quyền ở Việt Nam vì cuộc đấu tranh này còn phải tiếp tục cho đến thắng lợi cuối cùng./.

Posted in Chinh Tri Xa Hoi | Leave a Comment »

►Các diễn viên ở quốc hội đang diễn những màn kịch cuối cùng

Posted by hoangtran204 trên 20/06/2013

Những màn kịch cuối cùng

Minh Văn

Tác giả gửi tới Dân Luận

20-6-2013

Khi con người sống giả dối và không thực lòng với nhau thì người ta gọi là đóng kịch. Nhiều người cùng đóng kịch để tự dối mình dối người thì gọi là diễn kịch. Công lý và sự thật đã không còn, niềm tin đã thực sự mất đi trong mỗi con người, đó là hiện thực xã hội Việt Nam ngày nay.

Cả đất nước giờ đây đang sống những tháng ngày thê thảm nhất, dưới lừa trên, trên dối dưới – tất cả ngập chìm trong mê cung của sự lừa dối không có lối ra. Nói văn hoa hơn, thì cả xã hội Việt nam là một màn kịch lớn, và đó là những màn kịch tăm tối cuối cùng trước khi ánh bình minh xuất hiện. Đọc tiếp »

Posted in Chinh Tri Xa Hoi | Leave a Comment »

►Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21/6- Nhục nhã thay nền báo chí cách mạng

Posted by hoangtran204 trên 19/06/2013

Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21/6.

Lê Diễn Đức- RFA

rfavietnam.com

 Chia sẻ bài viết này


Trong cuốn “A History of Reading”, Alberto Manguel, nhà văn Argentina, viết: 

“Các chế độ độc tài không muốn chúng ta suy nghĩ, nên ngăn cấm, đe dọa và kiểm duyệt. Trước và sau đều nhằm mục đích làm chúng ta ngu ngốc và cam phận với sự xuống cấp về sự hiểu biết của mình. Vì vậy các chế độ này khuyến khích tiêu thụ những thứ rác rưởi. Trong bối cảnh này, đọc sách báo ngoài luồng kiểm duyệt trở thành hoạt động phá hoại”.

Kiểm soát, cắt xén, ngụy tạo thông tin phục vụ mục đích tuyên truyền lừa mị là mục đích của các nhà nước độc tài toàn trị hay các chế độ chuyên quyền.

Tháng 6/năm 1989, chính phủ không cộng sản đầu tiên tại Ba Lan được thành lập. Việc đầu tiên mà chính phủ thực hiện là ngưng toàn bộ hoạt động của cơ quan kiểm duyệt trung ương, vào lúc bây giờ có tới 465 nhân viên, mỗi năm tiêu thụ hàng tỷ đô la và giải thể hoàn toàn cơ quan này vào năm 1990.

Nhà nước Ba Lan chỉ còn nắm giữ hai kênh truyền hình TVP1 và TVP2, bên cạnh khoảng 200 kênh truyền hình tư nhân khác như Polsat, TVN, TV Puls, Canal +, v.v… Tuy nhiên không có bất kỳ tờ báo nào trong hàng trăm nhật báo và tạp chí thuộc hệ thống nhà nước.

Nên dân chủ non trẻ cần báo chí, truyền thông tự do để xây dựng và lành mạnh hoá xã hội. Tất cả sinh hoạt của cộng đồng xã hội, của nhà nước Ba Lan đều được phản ánh rộng rãi trên báo chí.

Trong hơn hai mươi năm dân chủ, báo chí tự do tại Ba Lan thực sự là sân chơi, diễn đàn bình đẳng cho sự cạnh tranh, tranh chấp chính trị giữa các đảng phái, nhưng đồng thời cũng là vũ khí hiệu quả nhất vạch trần tham nhũng, tội phạm. Trong đối ngoại, báo chí đã góp phần tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền.

Một nền dân chủ đích thực không phải chỉ có quốc hội đa đảng, bầu cử tự do mà là phải đảm bảo có báo chí, truyền thông tự do. Đấy là tiêu chuẩn then chốt, là chân lý.

Bao giờ cho đến… ngày xưa?

Trong thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, báo chí tư nhân vẫn được phát hành.

Ngày 15/4/1865 nguyệt san Gia Định xuất bản tại Sài Gòn là tờ báo quốc ngữ đầu tiên trên toàn quốc.

Tại Nam Kỳ lần lượt phát hành Nhật trình Nam Kỳ (1883), Phan Yên báo (1898), Nông Cổ Mín Đàm (1901), Nhật Báo Tỉnh (1905), Lục Tỉnh Tân văn (1907), Nam Kỳ Địa phận (1908), Tân Đợi Thời báo (1916, sau đổi thành Công Luận báo), Nam Trung Nhật báo (1917), An Hà Báo (1917, ở Cần Thơ), Đại Việt Tạp khí (1918, ở Long Xuyên), Nữ Giới Chung (1918)…

Một phụ bản của tờ “Lục tỉnh Tân văn” ở Sài Gòn xuất hiện ở Bắc Kỳ là tuần báo “Đông Dương Tạp chí”, ra mắt ngày 15/5/1913, do F. H. Schneider làm giám đốc và Nguyễn Văn Vĩnh giữ chức chủ bút. “Đông Dương Tạp chí” tồn tại được 6 năm 4 tháng (1913 – 1919).

“Đông Dương Tạp chí” có mục đích chính trị là tuyên truyền cho chính sách bảo hộ của người Pháp, nhưng với những người Việt Nam cộng tác, thì họ dùng tờ báo để tuyên truyền cho việc duy tân đất nước và xây dựng một nền văn học mới.

Tháng 7/1917 tờ Nam Phong Tạp chí do Phạm Quỳnh chủ trương ra đời. Trong bài “Quốc học và chính trị”, năm 1921, ông viết:

Gầy dựng, tổ chức một nền tản văn thích hợp với đời nay, và có cốt cách An Nam, vừa có thể cách tân thời đủ dùng để diễn được các tư tưởng mới, đó là cái cấp vụ hiện nay, mà là cái đường thứ nhất trong việc gầy dựng một nền quốc học sau này vậy… Nhà văn muốn thờ nước không có cái phương tiện nào hay bằng giúp cho nước nhà có một nền quốc văn xứng đáng. Đó là chủ nghĩa của tôi bấy lâu nay, mà là cái tín điều thứ nhất trong đạo quốc gia của tôi vậy”.

Nam Phong Tạp chí có sự tham gia của một số cây bút nổi tiếng như Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác), Đông Hồ (Lâm Tấn Phác), Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu), Mân Châu (Nguyễn Mạnh Bổng), Tung Vân (Nguyễn Đôn Phục), Đông Châu (Nguyễn Hữu Tiến), Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Tương Phố, Dương Quảng Hàm…

Dù bị hạn chế, nhưng báo chí tư nhân trong giai đoạn Pháp thuộc đã nói lên được tiếng nói của người bị trị, góp phần không nhỏ trong việc chấn hưng dân trí.

Ô nhục thay nền báo chí cách mạng

Báo chí cách mạng là công cụ của đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), phục vụ cho mục đích cầm quyền của ĐCSVN và chịu sự kiểm duyệt, quản lý chặt chẽ của ĐCSVN.

Một bộ máy tuyên truyền, cồng kềnh, chi phí tốn kém khủng khiếp cho một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát thanh truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của các bộ, ngành, với 17 ngàn nhà báo mang thẻ, cộng thêm đội ngũ dư luận viên, chuyên gia bút chiến đông đảo và 80 ngàn tuyên truyền viên miệng trên khắp các tỉnh thành.

Thế nhưng, từ khi có internet, bộ máy tuyên truyền này bị vỡ toang và phải đối đầu không khoan nhượng với báo chí lề dân, thông qua các blogs và mạng xã hội.

Bằng con số “có hơn 31,3 triệu người sử dụng internet, chiếm 35,58% dân số (tính đến 11/2012) và “tổng số thuê bao băng rộng hiện nay đạt gần năm triệu, tổng số thuê bao 3G đạt hơn 3,3 triệu, 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông ở Việt Nam có kết nối để truy nhập internet băng rộng…”, Bộ Thông tin – Truyền thông cho rằng “tự do internet của Việt Nam là sự thật không thể bác bỏ. Hay nói cách khác, Việt Nam là quốc gia hết sức thân thiện với internet”.

Đây là một tuyên bố láo khoét!

Trước hết, số lượng người sử dụng hoàn toàn độc lập với sự tự do Internet. Sự phát triển Internet đã không tỷ lệ thuận với sự tự do sử dụng. Số lượng người sử dụng tăng nhanh, nhưng nhà nước VN cũng đồng thời tìm cách đánh phá các trang web có các bài viết không đúng với đường lối chính sách của ĐCSVN.

Nếu không phải là hung thần của Internet thì làm sao có chuyện tướng công an Vũ Hải Triều khoe khoang đánh sập 300 trang mạng xấu trong một cuộc hội nghị báo chí năm 2010? Cho tin tặc đột nhập phá hoại đã trở thành chính sách xuyên suốt. Các trang báo lề dân liên tục bị tấn công. Mạng xã hội Facebook bị chặn hết sức quyết liệt, người sử dụng vẫn phải sử dụng công nghệ vượt tường lửa để truy cập.

Nhà cầm quyền đã càn quét, khủng bố các cây bút tự do. Trong một thời gian ngắn gần đây, gần 40 bloggers bị bắt giữ, tù đày, trong đó nhiều người nhận mức án tù rất nặng nề, phí lý như Điếu Cày 12 năm tù, 5 năm quản chế; Tạ Phong Tần 10 năm tù, 3 năm quản chế; Hồ Đức Hoà 13 năm tù…

Việc bắt giam các bloggers Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy chứng tỏ phản ứng lúng túng, điên rồ của nhà chức trách.

Trong bài “Trận địa thông tin” trên tờ Lao Động Online ngày 10/01/2013, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn đã thừa nhận:

“Tại sao chúng ta có một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát thanh truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của các bộ, ngành. Có tới 17.000 nhà báo, trong đó có nhiều cây bút có đủ khả năng làm lay động bạn đọc mà thông tin lưu truyền trong xã hội lại là thông tin từ blog cá nhân”.

“Lên tiếng một cách đồng loạt, im lặng một cách đồng loạt”, báo chí đang đánh mất niềm tin của bạn đọc. Và, với việc né tránh những thông tin nhạy cảm, với việc không được cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời, báo chí đánh mất nốt thói quen tìm kiếm thông tin của bạn đọc, khi giờ đây, họ “lên mạng”, thay vì tìm đọc báo. Đây là những sự thật đau lòng”.

Khi xã hội bị khủng hoảng lòng tin, cái Ác lên ngôi thay thế cái Thiện, sự dối trá và vô cảm thành vấn nạn thường trực, chủ quyền an ninh quốc gia bị đe doạ nghiêm trọng, ngư dân bị xua đuổi, ức hiếp trên biển Đông, mà báo chí lề đảng cũng chỉ nói đến tàu “lạ”, hoặc “đồng loạt im lặng” trong những ngày kỷ niệm lịch sử chống Trung Quốc xâm lược, thì bộ máy tuyên truyền có lớn bao nhiêu đi nữa khó mà đảo ngược thực tế. Người ta đi tìm sự thật ở lề dân.

Lời tự thú của Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn là sự ô nhục của một nền báo chí cách mạng!

© 2013 Lê Diễn Đức – RFA Blog

 

Nhà báo “tham nhũng” như thế nào?

Ngô Minh blog 

Người ta gọi “báo chí là quyền lực thứ tư” trong xã hội sau lập pháp,tư pháp và hành pháp. Vì là quyền lực nên bao giờ cũng có sự lạm quyền. Lâu nay ta chỉ nói đến lãnh đạo có chức có quyền tham những. Vậy nhà báo có tham nhũng không? Có! Một số nhà báo và cơ quan báo chí đang tham nhũng rất tinh vi. Báo mà đăng bài để “ chạy án” cho Năm Cam cách đây mấy năm là báo hại đích thị rồi. Mới đây, Hà Phan (Phan Hà Bình) phó tổng thư ký tòa soạn của một tờ báo lớn bị bắt khi nhận hối lộ 220 triệu đồng (11.000 đô la) để không viết bài tố các thương gia. Đó là những chuyện tham nhũng, hối lộ cụ thể. Từ nhiều năm qua báo chí ta cũng có không “mẹo làm tiền” các doanh nghiệp không kém những vụ việc trên. Không ít tờ báo đang trở thành báo hại. Hại đến mức hễ nghe nhà báo tới là giám đốc “sợ” tái mặt, phải tìm cách “chạy trốn”, nhưng lại ít người nói tới.

Tòa soạn báo thành… cơ quan đánh quả!

Từ ngày đổi mới đến nay, báo chí đã thực sự trở thành “món ăn” không thể thiếu đối với người dân hàng ngày. Báo chí đang tham gia tích cực và có hiệu quả vào sự nghiệp đổi mới, mở của, chống tiêu cực, tham nhũng. Nhiều tờ báo do hấp dẫn người đọc, ti-ra phát hành lớn, nên người ta sống chủ yếu bằng lợi nhuận báo. Những tờ báo đó, hàng các doanh nghiệp hàng ngày tìm đến xin đăng quảng cáo rất đông. Nhưng cũng có rất nhiều tờ báo phát chỉ phát hành được vài ngàn bản một kỳ. Tiền bán báo không đủ bù tiền in, tiền nhuận bút, nên cả tòa soạn sống chủ yếu bằng “ nghề chạy quảng cáo” ở các DNNN, thậm chí “chạy” quảng cáo tận các trường tiểu học, trạm xá, bệnh viên… thậm chí Trại phục hồi nhân phẩm cũng phải “mần” quảng cáo! Nhiều tờ báo ở Hà Nội, vào Đà Nẵng lập ra một “đại diện Miền Trung“ hẳn hoi, nhưng tòa soạn không trả lương, mà anh em phải đi chạy quảng cáo để nuôi nhau! Cứ đến kỳ Tết Nguyên Đán, ngày 30-4, ngày nhà báo Việt Nam 21-6, ngày Quốc Khánh 2-9 v.v… cả tòa soạn không viết báo mà đổ xô đi… làm quảng cáo! Làm quảng cáo mà có thư của thứ trưởng, vụt trưởng mang theo. Có báo một cái Tết “đọc lệnh” được vài ba tỷ đồng tiền qủang cáo! Giám đốc doanh nghiệp nhà nước phải tiếp mỗi ngày hàng mấy chục “nhà báo quảng cáo” như vậy nên phát sợ. Nhiều nhà báo nhơè đi “đọc lệnh” quảng cáo mà có tiền xây nhà lầu, mua xe hơi xịn. Chứ nếu sống bằng nhuận bút thì không bao giờ có những thứ như vậy. Một nhà báo viết nhiều, in nhiều như bác Nguyễn Xuyến ở cạnh nhà tôi, mỗi tháng măng-đa nhuận bút về 7, 8 triệu đồng, cũng không đủ tiền mua xe hơi xin như vậy Các nhà báo hãy sờ tay lên gáy mình mà ngẫm nghĩ để sống cho ra con người.

Dù DN không có nhu cầu quảng cáo, nhưng phải bấm bụng mà làm, vì không làm “ lỡ có sai sót gì” trong kinh doanh, “nhà báo nói thêm” một thành mười thi nguy to! Một cái quảng cáo nửa trang ( 27x 40cm) 20 triệu bạc, in bia bốn thì 50 triệu. Một cái Tết “ chiều” cho hết hàng mấy chục tờ báo, coi như mất toi hai ba bốn trăm triệu,vì thế mà giá hàng hóa dịch vụ bị đội lên, khó mà cạnh tranh. DNNN thì ngày càng thua lỗ, thế mà phải “nuôi” thêm các anh “báo hại”! Bởi thế mà anh Lê Hữu Thăng, hiện là phó chủ tịch tỉnh Quảng Trị, hồi làm giám đốc Công ty Xuất Nhập khẩu tỉnh, anh đã nghĩ ra được “mẹo” để tránh sự “tấn công” của các nhà báo quảng cáo. Anh làm một văn bản, bộ tứ công ty ký vào, quy định một năm chỉ làm quảng cáo trên 2 tờ báo vào dịp Tết hay lễ ở báo tỉnh, báo ngành. Anh dán tờ “yết thị” đó lên. Nhà báo tới đành im lặng rút lui!

Có nhiều chiêu làm quảng cáo lắm. Viết một bài ca ngợi thành tích công ty, gọi là “ viết cho”, rồi bắt doanh nghiệp “trả ơn” bằng cái quảng cáo. Kiếm mấy em thật tươi mát, nhận làm hợp đồng, các em sẽ “ngồi lỳ” ở phòng giám đốc suốt buổi, giám đốc ngán quá phải “ ký”, hoặc các em sẽ “chiều chuộng”,” liếc mắt đưa tình” giám đốc để được cái quảng cáo. Tiền chùa mà, mất gì! Đã có thư tố cáo ông giám đốc M. chi cho cô bồ nhí là ”phóng viên quảng cáo” của tờ báo nọ trong mấy tháng hơn 400 triệu đồng quảng cáo. Ở tỉnh nọ, các nhà báo tỉnh gọi đi làm quảng cáo là “ đi đọc lệnh”. Có nghĩa là cứ đến doanh nghiệp bắt giám đốc ký, vì giám đốc nào cũng có “gót chân A-Sin” mà nếu tiết lộ lên báo là gay! Hoa hồng cho người làm quảng cáo từ 30 % có báo chi trả 40, 45%, nên có nhà báo từ xe đạp “chân co chân duỗi”, vào nghề chỉ mấy năm làm quảng cáo đã xây được nhà bốn lầu, mua xe hơi… Thế là Tòa soạn báo thành cơ quan đi… đánh quả quảng cáo! Đó là tham những chứ gì nữa!

Chuyên đề… “lừa” ?!

Hiện nay có rất nhiều tờ báo, tạp chí, cũng gọi là cơ quan báo chí với đủ ban bệ, nhưng không bao giờ làm báo cả! Thế họ sống bằng gì ? Xin thưa: bằng việc xuất bản các “chuyên đề… lừa”. Qua tìm hiểu nhiều báo, tôi biết cách làm của họ như sau. Chạy xin giấy phép, đặt tên thật oách, kiểu “Tiềm năng đầu tư của tỉnh…”, hay” Tỉnh…rải thảm đỏ mời các nhà đầu tư”…, Phóng viên trang bị máy ảnh kỹ thuật số xịn, đeo hai ba cái trước nực, tay xách laptop kè kè, để lòe thiên hạ. Rồi ông Tổng biên tập lên xin ông Thứ trưởng, Bộ trưởng cái thư gửi cho Bí thư, chủ tịch các tỉnh, đề nghị phối hợp làm chuyên đề “ giới thiệu tiềm năng đầu tư của địa phương” hay lễ hội, festival v.v.. Các tỉnh nghe nói “đầu tư nước ngoài” mừng lắm, vì đây là mốt mà! Ông TBT mới tán thêm là “tờ báo của mình in song ngữ, phát hành đi hơn trăm nước trên thế giới, ti-ra hai triệu bản”. Thế hợp đồng làm “Chuyên đề về tiềm năng kinh tế, mời gọi đầu tư của tỉnh X” được ký. Ngoài việc tỉnh chi số tiền in ấn lên tới hàng trăm triệu đồng, chủ tịch tỉnh còn ký công văn “bắt“ hàng trăm doanh nghiệp mạnh trong tỉnh tham gia quảng cáo, mỗi doanh nghiệp 15 – 20 triệu đồng. Sau đó họ thuê người viết bài, chụp ảnh, dịch, cộng thêm trích đoạn nghị quyết tỉnh, bài phỏng vấn kèm ảnh ông bí thư, chủ tịch in trang đầu, thế là được cuốn “chuyên đề” dày khoảng 100 trang, in song ngữ Việt – Anh. Người viết bài này cũng đã từng được thuê viết bài “tiềm năng…” như vậy. Họ chỉ in 700 bản, nộp lưu chiểu, báo biếu 200 bản, còn 500 bản mang về bán lại cho tỉnh với 150 ngàn / 1 cuốn (đã bỏ tiền ra in rồi lại phải bỏ tiền ra mua!). Chỉ một “chuyên đề… lừa” như vậy, tòa báo đã kiếm được vài tỷ đồng ngon ơ! Có tòa soạn đã lần lượt làm được 61 chuyên đề tỉnh, hàng chục chuyên đề ngành, nhưng chẳng mang lại cho xã hội ích lợi nào! Những tờ báo như vậy không bao giờ xuất hiện trên thị trường, cũng không ai đặt mua qua bưu điện! Đó là tham nhũng chú gì nữa!

Có một loại sách… để trên bàn cho vui!

Người biết bài này thường thấy trên bàn làm việc của ông bạn giám đốc DN một chồng sách lớn, cuốn nào cũng dày cộp. Đó chỉ là “ sách… quảng cáo” do đủ loại Nhà xuất bản và cơ quan báo chí ấn hành.! Cuốn nào cũng có tên gọi thật kêu. Ví dụ như Từ điển doanh nghiệp Việt Nam, Cẩm nang doanh nghiệp Việt Nam, Doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam, Hàng Việt Nam chất lượng cao, Doanh nhân vàng thời mở cửa.v.v..Tôi hỏi ông bạn: Sách này để làm gì? Ông trả lời: Để trên bàn cho.. vui! Cứ một doanh nghiệp một trang giới thiệu rất đơn giản: tên doanh nghiệp, địa chỉ, điện thoại, Fax, ảnh trụ sở cơ quan, ảnh giám đốc v.v. cuốn gọi là “Cẩm nang doạnh nghiệp” chỉ có 500 trang, nghĩa là chỉ 500 DN, trong lúc đó ở nước ta có gần 500.000 doanh nghiệp? Thế thì “từ điểm”, “cẩm nang“ cái nỗi gì! Nhưng mà làm được 500 trang quảng cáo đóng thành “sách” ấy, tòa soạn báo đã thu được 2,5 tỷ đồng doanh thu (5 triệu đồng / trang, chưa tính 3 trang bìa 4, 3,2, mỗi trang từ 20 – 50 triệu đồng), trừ chi phí hoa hồng, tiền chế bản màu, in ấn, còn lãi ròng cả tỷ đồng! Bởi thế mà rất nhiều báo, nhà xuất bản năm nào cũng làm “Sách… quảng cáo” với nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng tất cả cuốn sách ấy đều không giúp ích được gì cho doanh nghiệp trong kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường. Đó là tham nhũng chứ gì nữa!

Vĩ thanh

Tôi không bao giờ phản đối việc quảng cáo trên báo chí. Vì quảng cáo càng nhiều chứng tỏ nền kinh tế càng phát triển. Nhưng quảng cáo theo kiểu “đi xin”, “ đi đọc lệnh”, hay “làm chuyên đề”, “sách… quảng cáo”… theo hình thức “lừa đảo” đã kể ở trên là làm khổ doanh nghiệp, là báo hại nền kinh tế đất nước. Các tòa soạn báo ơi, nhà báo ơi, tiền báo thu được từ quảng cáo đó là tiền thua lỗ của các doanh nghiệp cả đấy. Đây là một hiện tượng không lành mạnh nhưng rất phổ biến của báo chí hiện nay. Đề nghị các cơ quan chức năng có biện pháp giúp các báo nâng cao chất lượng bài vở sống được bằng nghề làm báo của mình!

 

——-

►Đinh Nhật Uy bị bắt vì “không thuyết phục được Đinh nguyên Kha nhận tội”?
►Việt Hưng (Vihajico), chủ đầu tư Ecopark, là đối tác chiến lược của VietCapital Bank, do Nguyễn Thanh Phượng-con gái của Thủ tướng Ng T. Dũng- làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị
►Tranh chấp quyền lực-quyền lợi… trong nội bộ đảng CSVN (Vinashin và kinh tế tập đoàn)
►Trại giam số 4 Phan Đăng Lưu
Luật y tế của Mỹ sẽ có hiệu lực năm 2014 sau khi Tối cao Pháp viện Mỹ cho rằng luật này không vi hiến
►Chính phủ Trần Trọng Kim 17-4-1945 là chính phủ đầu tiên của nước VN độc lập, Chính phủ 2-9-1945 của đảng CSVN ít được ai ủng hộ, nên phải có sự ra đời của chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến 2-3-1946
►Sách Bên Thắng Cuộc viết về Nguyễn Tấn Dũng và kinh tế tập đoàn
Cú “giật mình” của Truyền thông nhà nước
► Bút nô của một nhà báo…

Posted in Uncategorized | Leave a Comment »