Trần Hoàng Blog

Archive for Tháng Bảy, 2014

►Họp báo kết quả sợ bộ chuyến thăm của báo cáo viên đặc biệt LHQ về tự do tôn giáo và tín ngưỡng (7/2014)

Posted by hoangtran204 trên 31/07/2014

Họp báo kết quả sợ bộ chuyến thăm của báo cáo viên đặc biệt LHQ về tự do tôn giáo và tín ngưỡng

 

Hà Nộ i- 31-7-2014

 

Photo: Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo tín ngưỡng Heiner Bielefeldt tại Hà Nội ngày 31/7/2014

 

Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo tín ngưỡng Heiner Bielefeldt tại Hà Nội ngày 31/7/2014

 

 

 

Trưa nay, Buổi họp báo của ông Heiner Bielefeldt vừa được bắt đầu lúc 12:00 tại Phòng họp Rose, Trụ sở UNDP Hà Nội, 25-29 phố Phan Bội Châu, Hà Nội. Như đã thông báo, nội dung cuộc họp báo công khai này, ông Heiner sẽ thông báo kết quả sơ bộ chuyến thăm của ông những ngày qua tại Hà Nội, SaiGon, miền Tây.

Cuộc họp chính thức bắt đầuHiện đang có đông đảo những người quan tâm, anh chị em đấu tranh ở Hà Nội, Saigon tham dự.

Có khoảng 100 người tham dự buổi họp báo này. Chúng tôi thấy có sự tham dự của các hãng thông tấn quốc tế như Reuters, các phóng viên của VRNs, Dân Luận. Các đại diện cho các tổ chức xã hội dân sự như Con Đường Việt Nam, Voice… Những người đấu tranh như JB Nguyễn Hữu Vinh, Bạch Hồng Quyền, Nguyễn Hồ Nhật Thành…

Ông Heiner cho biết: “Dự định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn không may đã bị gián đoạn từ ngày 28 đến 30/7. Tôi nhận được những thông tin đáng tin cậy là một số cá nhân tôi muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt chẽ, cảnh cáo, đe dọa, sách nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi lại. Ngay cả những người đã gặp được tôi cũng không tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc chấn vấn ở một mức độ nhất định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng bị giám sát chặt bởi “Những cán bộ an ninh hoặc công an” mà chúng tôi không được thông báo rõ, đồng thời sự riêng tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh hưởng. Những việc này là sự vi phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu của bất kỳ chuyến thăm quốc gia nào.”

photo.php_.jpg

Đoạn báo cáo của ông Heiner Bielefeldt do ctv Dân Luận cung cấpÔng Heiner yêu cầu chính phủ Việt Nam đảm bảo an toàn cho những người đã tiếp xúc với ông, với các báo cáo viên. Ông cho rằng việc lợi dụng và lạm dụng Điều 258 (một điều luật mơ hồ, không rõ ràng) trong Bộ Luật Hình sự của Việt Nam để xử tù những người theo tôn giáo khác nhau dẫn đến ảnh hưởng tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Đặc biệt, ông lưu ý: Chưa có một khiếu nại nào thành công khi bị khép vào điều luật 258 này.

Vi phạm lớn nhất của chính quyền là sức ép của họ, không cho người dân tự do lựa chọn tôn giáo, tín ngưỡng mà ép họ phải chọn tôn giáo tín ngưỡng nào đó theo sự sắp đặt.

Anh Nguyễn Hồ Nhật Thành đại diện tổ chức Voice đưa ra câu hỏi với ông Heiner Bielefeldt rằng: các nước ông qua có các cơ quan, ban Tôn giáo như ở Việt Nam không!?

Trả lời câu hỏi này, Theo blogger JB Nguyễn Hữu Vinh tường thuật lại, ông đặc phái viên cho biết đại ý như sau: Cách tiếp cận tôn giáo mỗi đảng phái, mỗi đất nước có một cách khác nhau. Có những nước có bộ phận phụ trách tôn giáo để liên kết hoặc giải quyết các mối quan hệ tôn giáo giữa các nhóm, các tôn giáo khác, có những nước không có. Khi không có, thì việc liên hệ giữa các tôn giáo tự họ giải quyết.

Được biết trong buổi họp báo có đại diện của Bộ ngoại giao Việt Nam tuy nhiên người này không nêu rõ họ tên và chức vụ của mình. Đại diện Bộ ngoại giao giải thích rằng: ” Đây chắc chắn là một sự hiểu lầm của ông vì việc ngăn chặn đi lại đó là để bảo vệ an ninh và an toàn cho ông, Năm báo cáo viên trong bốn năm qua tới thăm Việt Nam không hề có người nào nói như ông! Và chúng tôi cam đoan rằng, tự do tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng”

Đại diện Bộ ngoại giao giấu tên: áo xanh đeo thẻ giữa hình luôn lẩn tránh máy chụp hình. Ảnh do CTV Dân Luận cung cấpCuộc họp kết thúc lúc 13h30 phút.

Photo: Nguyễn Hồ Nhật Thành đang nói về tự do tôn giáo tín ngưỡng và việc anh bị chặn không được gặp ông Heiner tại Saigon ngày 25/07 vừa qua.</p><br />
<p>Trực tiếp tại Con Đường Việt Nam

 

Nguyễn Hồ Nhật Thành đang nói về tự do tôn giáo tín ngưỡng và việc anh bị chặn không được gặp ông Heiner tại Saigon ngày 25/07 vừa qua.

Chị Thanh Nghiên được anh David đsq Úc giải cứu đưa về nhà thờ an toàn rồi,
còn con đường về Hải Phòng thì chưa biết sao
Photo: Chị Thanh Nghiên được anh David đsq Úc giải cứu đưa về nhà thờ an toàn rồi, còn con đường về Hải Phòng thì chưa biết sao :)
Gặp ông Đại sứ Mỹ David B. Shear trong buổi hội thảo” Truyền thông phi nhà nước” sáng nay.
Photo: Gặp ông Đại sứ Mỹ David B. Shear trong buổi hội thảo" Truyền thông phi nhà nước" sáng nay.

 

nguồn:  Con Đường Việt Nam  và danluan.org

Posted in Dân Chủ và Nhân Quyền, Tôn Giáo | Leave a Comment »

►Thư ngỏ của một số đảng viên Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

Posted by hoangtran204 trên 29/07/2014

Nguồn: anhbasam.wordpress.com

28-7-2014

THƯ NGỎ

 Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.

Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.

Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.

Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.

Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:

1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.

Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.

2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…

Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình.

Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.

Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!

______________________

DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

  1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.
  2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
  3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
  4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
  5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.
  6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
  7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
  8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
  9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
  10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
  11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
  12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.
  13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
  14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.
  15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
  16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
  17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.
  18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
  19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
  20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
  21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
  22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
  23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.
  24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.
  25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
  26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
  27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
  28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký‎ Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
  29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
  30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư k‎ý của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
  31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
  32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.
  33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
  34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
  35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.
  36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
  37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
  38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
  39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
  40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
  41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.
  42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
  43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
  44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế.
  45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
  46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
  47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
  48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.
  49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
  50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.
  51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
  52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
  53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.
  54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.
  55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
  56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
  57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
  58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.
  59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
  60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1991, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
  61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.

_____________________

Posted in Biển Đông: Hoàng Sa và Trường Sa | Leave a Comment »

►Tác dụng pháp lý của thư Phạm Văn Đồng qua lăng kính ba phán quyết Tòa án Quốc tế

Posted by hoangtran204 trên 27/07/2014

Tác dụng pháp lý của thư Phạm Văn Đồng qua lăng kính ba phán quyết Tòa án Quốc tế

.
Phạm Quang Tuấn
.

26-7-2014

 

Gần đây một số tác giả, trong đó có cả những luật sư, đã phân tích giá trị pháp lý của thư (hoặc công hàm hay công thư [1]) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1958) dựa theo các nguyên tắc pháp lý quốc tế. Dĩ nhiên, biết những nguyên tắc luật pháp nào phải áp dụng là điều rất quan trọng, nhưng điều quan trọng chẳng kém là phải biết Tòa diễn giải và áp dụng những nguyên tắc đó ra sao. Bài này duyệt qua phán quyết của Tòa án Quốc tế về ba vụ án tranh chấp chủ quyền: đảo Pedra Branca, Đông Greenland và đền Preah Vihear.

Trong vụ Pedra Branca có một lá thư từ một viên Đổng Lý tương tự như thư Phạm Văn Đồng. Vụ Đông Greenland không có văn kiện chính thức mà chỉ có một lời nói từ một vị ngoại trưởng. Vụ Preah Vihear không có văn kiện hay lời nói nào từ bỏ chủ quyền của mình hay công nhận chủ quyền của nước khác. Cả ba việc này đều đóng một phần quan trọng đưa đến việc Tòa xử mất chủ quyền. Từ đó, ta sẽ có thể suy ra vài điều về tác dụng của thư Phạm Văn Đồng nếu chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa được đem ra kiện trước tòa. Người nào không có thì giờ đọc hết có thể đi thẳng đến câu cuối (kết luận 14) bài này.

Lưu ý:

Vài lý lẽ trong bài này có thể khiến tác giả bị gọi là “thân Tàu” hay “Việt gian”. Trong bối cảnh Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này như một cố gắng kiểm điểm áo giáp của mình trước khi ra trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm cách vá lại. Nếu tìm ra lỗ thủng thì “Việt gian” “thân Tàu” không phải là người kiểm điểm, mà là người gây ra lỗ thủng.

Phần I. Ý định trong thư Phạm Văn Đồng

Như ta sẽ thấy trong các phần sau, ý định (intention) diễn tả trong một lá thư hay văn kiện chiếm một vài trò chính yếu trong sự phân xử của Tòa án Quốc tế. Vì có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung của thư Phạm Văn Đồng nên cần xem lại thư này nói gì. Nguyên văn thư Phạm Văn Đồng như sau ([A] và [B] do tác giả bài này đánh số thêm để tiện việc bàn luận):

Kính gửi đồng chí Chu Ân-lai,

Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa tại Bắc Kinh.

Thưa đồng chí Tổng lý

Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:

[A] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.

[B] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.

Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

PHẠM VĂN ĐỒNG

Thủ tướng Chính phủ

nước Việt-nam dân chủ cộng hoà

Thư này “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” ngày 4/9/1958 của Trung Quốc mà nội dung như sau (theo bản tiếng Anh của bộ Ngoại giao Mỹ viện dẫn tạp chí Peking Review [2]):

Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tuyên bố:

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, gồm Trung Quốc đất liền và các đảo dọc bờ, Ðài Loan và các đảo lân cận, quần đảo Penghu và tất cả các đảo khác trên biển cả thuộc Trung Quốc.

(2) Đường cơ sở của lãnh hải thuộc đất liền Trung Quốc và các đảo dọc bờ biển là các đường thẳng nối liền các điểm cơ sở trên bờ và các đảo ngoại biên dọc bờ biển [offshore outlying islands]; Vùng biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là lãnh hải của Trung Quốc. Vùng biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongding, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.

(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được đi vào hải phận Trung Quốc và vùng trời trên hải phận này.

(4) Những nguyên tắc trong đoạn (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Ðài Loan và Penghu hiện còn bị chiếm đóng bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Đây là vấn đề nội bộ của Trung Quốc, các nước ngoài không được xen vào.

Thư Phạm Văn Đồng là một lá thư chính thức (Công Thư hay Công Hàm), ký tên và đóng dấu bởi thủ tướng một quốc gia, người đứng đầu chính phủ, nhân danh chính phủ để nói và đầy đủ tư cách để đại diện quốc gia của mình.

Bức thư gồm hai câu chính: câu đầu (A) bày tỏ lập trường, thái độ: tán thành bản tuyên bố của Trung Quốc. Câu sau (B) nói về hành động cụ thể: chỉ thị cho các cơ quan Nhà Nước phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.

Nhiều tác giả và phát ngôn viên Việt Nam (chẳng hạn [3]) cho rằng vì thư Phạm Văn Đồng không viết rõ những chữ “Hoàng Sa” và “Trường Sa” nên không thể nói là đã chấp nhận chủ quyền Trung Quốc ở hai quần đảo. Họ cho rằng bản tuyên bố nói về bề rộng 12 hải lý là ý chính, những ý khác (kể cả hải phận quanh Hoàng Sa – Trường Sa) chỉ là ý phụ, thư Phạm Văn Đồng chỉ tán thành ý chính này chứ không tán thành những ý phụ. Những người sính ngôn ngữ luật gọi đây là “nguyên tắc bốn góc”: chỉ được hiểu từ những gì được viết ra trong văn bản, không được suy gì thêm.

Có người còn viện dẫn nguyên tắc “phải giải thích văn bản theo cách nào ít hại nhất cho tác giả” trong luật quốc tế. Tuy nhiên, dù giải thích “trong bốn góc” và “ít hại nhất” thì cũng vẫn phải hợp lý và tuân theo những nguyên tắc logic phổ quát và các định luật ngôn ngữ căn bản. Chẳng hạn, trong vụ Pedra Branca ta sẽ thấy Tòa hiểu câu “[chúng tôi] không đòi hỏi sở hữu [đảo này]” là “[chúng tôi] không đòi hỏi chủ quyền [đảo này]”, dù theo luật pháp thì không có sở hữu chưa chắc là không có chủ quyền.

Thử áp dụng nguyên tắc “trong bốn góc”, ta đọc thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đã “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”. Lưu ý chữ “bản”, nói về cả văn bản, chứ không phải chỉ nói về một trong những tuyên bố trong văn bản: mặc nhiên là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành toàn bộ nội dung của bản tuyên bố đó. Nếu chỉ tán thành một phần và không tán thành phần khác thì không thể nói là tán thành bản tuyên bố được. Bản tuyên bố nói trong đoạn 4 rằng lãnh hải Trung Quốc bọc quanh Hoàng sa và Trường sa, tức là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành điều đó, không cần phải nhắc lại trong thư của mình.

Lấy ví dụ, khi tòa án hỏi nhân chứng: “Ông/bà có hứa sẽ nói sự thật, tất cả sự thật và không gì khác ngoài sự thật?” (Do you swear to say the truth, the whole truth and nothing but the truth?), nhân chứng chỉ cần trả lời “I do” là đủ hiểu họ hứa tất cả những điều được hỏi, chứ không thể hiểu là họ chỉ hứa phần 1 nhưng không hứa phần 2 hay 3, v.v., và chắc chắn là không thể cãi rằng “tôi chỉ nói ‘I do’ chứ tôi đâu có hứa gì đâu?”. Hoặc trong thủ tục kết hôn, khi được hỏi “Anh/chị có hứa/thề sẽ…” (theo sau là nhiều lời hứa) cô dâu chú rể chỉ cần trả lời “Có” (I do) chứ không cần phải nhắc lại tất cả các lời hứa người hành lễ vừa đọc.

Có người cho rằng câu B trong thư Phạm Văn Đồng làm hẹp lại nghĩa của câu A: câu A tán thành chung chung, câu B mới viết cụ thể là tôn trọng hải phận 12 hải lý. Khi mà nói về một điều tức là loại ra hay bác bỏ những điều không nói. Lý luận đó chỉ có thể đúng nếu không có đoạn “tán thành bản tuyên bố” trong câu A, vì không thể vừa tán thành một bản văn vừa không tán thành nhiều điều trong bản văn đó. Hơn nữa, câu B không phải là làm rõ nghĩa câu A như nhiều người lý luận, mà nói về một hành động cụ thể (chỉ thị các cơ quan…) phát sinh từ sự tán thành trong câu A.

Có người cho rằng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không cần thiết phải tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa vì những đảo này đang dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa. Lý luận như vậy là lẫn lộn chủ quyền với sự quản lý. Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nói rõ rằng nước Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân chia, tức là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tự coi là có chủ quyền trên mọi phần đất Việt Nam từ bắc tới nam, và mọi hải đảo.

Có người [4] viết rằng, dựa theo “nguyên tắc thực lòng” (principle of good faith) trong luật quốc tế, vì chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là những người rất yêu nước, đã từng hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền đất nước nên họ không thể thực lòng muốn nhường lãnh thổ cho nước khác, do đó Tòa Án Quốc Tế sẽ không nhìn nhận ý định đó trong thư Phạm Văn Đồng. Diễn giải “thực lòng” theo kiểu này thì thật kỳ quặc, vì như vậy mỗi nước sẽ có quyền tha hồ tuyên bố, ký hiệp ước lừa bịp các nước khác, rồi tuyên bố rằng tôi không “thực lòng” (in good faith) khi viết hay ký những văn kiện đó và do đó chúng không ràng buộc tôi được! Diễn giải kiểu đó thì “nguyên tắc thực lòng” sẽ phải gọi là “nguyên tắc dối trá” (principle of bad faith)!

Thực ra, sự “thực lòng” trong giao dịch quốc tế phải hiểu là người viết hay ký thực lòng hiểu ý nghĩa của cái mình đang viết hay đang ký như thế nào, và sẽ thực lòng thi hành những gì đã hứa, chứ không có nghĩa là khi mình nói dối, nói mà “không thực lòng”, thì không sợ sẽ bị ràng buộc. Nguyên tắc này cần thiết để diễn dịch những hiệp ước, văn kiện trong đó có thể có sự hiểu lầm do khác biệt văn hóa chẳng hạn, và để đảm bảo là mỗi nước thực tâm thi hành những điều đã hứa [5].

Nếu ông Phạm Văn Đồng thực lòng chỉ tán thành việc cho bề rộng lãnh hải Trung Quốc rộng 12 hải lý thì ông vẫn có thể bỏ đoạn A đi, chỉ viết rằng: “Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung-quốc và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý ấy”. Như vậy chẳng đủ biểu lộ sự đoàn kết với nước anh em hay sao? (“Tôn trọng” chưa chắc đã là “tán thành”, tôn trọng nói về hành xử, tán thành nói về thái độ, tâm ý.)

Nói tóm lại, khó chối cãi rằng trong thư Phạm Văn Đồng, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã tán thành hay chấp nhận Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa. Ít nhất, thư này không phản ứng gì về câu “áp dụng cho … quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Nam Sa [Trường Sa]” trong bản tuyên bố của Trung Quốc: ta sẽ thấy là điều này rất quan trọng.

Phần II. Vụ án Pedra Branca

Tóm tắt vụ án

Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge là những đảo nhỏ nằm trong eo biển Malacca giữa Singapore và Malaysia. Thế kỷ 19 trở về trước những đảo này thuộc về vương quốc Johor, nay là một bang của Malaysia. Năm 1844 Johor cho phép chính quyền thuộc địa Anh xây và sau đó liên tục cai quản một hải đăng trên Pedra Branca. Năm 1979 Malaysia (quốc gia kế thừa Johor) công bố một bản đồ vẽ nhóm đảo này nằm trong lãnh hải của mình. Singapore (quốc gia kế thừa chính quyền thuộc địa Anh) phản đối. Hai nước đưa ra Tòa Án Quốc Tế phân xử năm 2003. Tòa xử là Pedra Branca thuộc về Singapore, Middle Rocks thuộc về Malaysia, còn South Ledge là đảo chìm khi nước lên, nên theo luật biển chủ quyền sẽ tùy thuộc nằm trong lãnh hải của nước nào (lãnh hải khu này chưa phân định xong) [6, 7].

Một sự kiện nổi bật trong quá trình này xảy ra năm 1953. Năm đó, chính quyền thuộc địa Anh viết thư cho Johor yêu cầu làm rõ tình trạng pháp lý của Pedra Branca. Quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết thư trả lời. Vì đáp thư Johor được tòa coi là có ý nghĩa rất quan trọng trong vụ án này, và có nhiều điểm tương đồng với thư Phạm Văn Đồng, nên cần biết rõ nội dung của nó. Nguyên văn lá thư như sau (đoạn 196 trong [6]):

“I have the honour to refer to your letter…dated 12th June 1953, addressed to the British Adviser, Johore, on the question of the status of Pedra Branca Rock some 40 miles from Singapore and to inform you that the Johore Government does not claim ownership of Pedra Branca.”

dịch:

“Tôi xin trân trọng đề cập đến thư của ngài ngày 12 tháng 6 năm 1953, gửi cho Cố vấn Anh, Johore, về tình trạng của Pedra Branca cách Singapore khoảng 40 dặm và xin thông báo rằng Chính phủ Johore không đòi quyền sở hữu Pedra Branca.”

Những tiêu chuẩn pháp lý được Tòa áp dụng

Tòa đã xác định những tiêu chuẩn pháp lý được áp dụng như sau (“đoạn xxx” chỉ những đoạn có số thứ tự trong phán quyết của Tòa [6]):

  • Muốn kết luận là đã có sự thay đổi chủ quyền thì cần có những bằng cớ rõ rệt, không thể nghi ngờ, căn cứ vào cách hành xử hai bên và những sự kiện liên hệ (đoạn 122).

(122. Critical for the Court’s assessment of the conduct of the Parties is the central importance in international law and relations of State sovereignty over territory and of the stability and certainty of that sovereignty. Because of that, any passing of sovereignty over territory on the basis of the conduct of the Parties, as set out above, must be manifested clearly and without any doubt by that conduct and the relevant facts. That is especially so if what may be involved, in the case of one of the Parties, is in effect the abandonment of sovereignty over part of its territory.)

  • Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức (chẳng hạn, một hiệp ước chuyển nhượng chủ quyền), thậm chí không cần hai bên nói ra (tacit), mà tập trung vào ý định (intention) của hai bên. Sự thay đổi chủ quyền có thể suy diễn từ cách hành xử của hai bên.

(120. Any passing of sovereignty might be by way of agreement between the two States in question. Such an agreement might take the form of a treaty,[…] The agreement might instead be tacit and arise from the conduct of the Parties. International law does not, in this matter, impose any particular form. Rather it places its emphasis on the parties’ intentions (cf. e.g. Temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), Preliminary Objections, I.C.J. Reports 1961, pp. 17, 31).)

  • Nếu một nước không phản ứng khi cần thiết, chẳng hạn khi nước khác khẳng định chủ quyền trên vùng đất của mình, thì chủ quyền có thể coi là đã chuyển qua nước kia. Hành xử này gọi là sự đồng ý hay chấp nhận ngầm (acquiescence).

(121. Under certain circumstances, sovereignty over territory might pass as a result of the failure of the State which has sovereignty to respond to conduct à titre de souverain of the other State or, as Judge Huber put it in the Island of Palmas case, to concrete manifestations of the display of territorial sovereignty by the other State (Island of Palmas Case (Netherlands/United States of America), Award of 4 April 1928, RIAA, Vol. II, (1949) p. 839). Such manifestations of the display of sovereignty may call for a response if they are not to be opposable to the State in question. The absence of reaction may well amount to acquiescence. The concept of acquiescence “is equivalent to tacit recognition manifested by unilateral conduct which the other party may interpret as consent…” (Delimitation of the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United States of America), Judgment, I.C.J. Reports 1984, p. 305, para. 130). That is to say, silence may also speak, but only if the conduct of the other State calls for a response.)

Tóm tắt lý luận và phán quyết của Tòa

Để phân xử chủ quyền, Tòa đã xem xét quá trình liên quan đến chủ quyền trong từng giai đoạn lịch sử:

(i) Thời kỳ 1844 trở về trước: Sau khi xem xét những bằng chứng lịch sử, Tòa kết luận rằng ở thời điểm 1844, Pedra Branca và Middle Rocks thuộc về Johor (nay là một tiểu bang của Malaysia).

(ii) Trong thời gian 1844-1852, Johor đã cho phép Anh xây hải đăng trên Pedra Branca. Tòa không kết luận gì về sự kiện này, và cho rằng việc này không có nghĩa là Johor từ bỏ chủ quyền.

(iii) Từ 1852 tới 1952, Johor không có động thái nào khẳng định chủ quyền trên các đảo liên hệ.

(iv) Năm 1953, để trả lời một lá thư từ Đổng Lý Thuộc Địa (Colonial Secretary) Singapore hỏi về chủ quyền Pedra Branca, quyền Đổng Lý Tiểu Bang (Acting State Secretary) Johor viết lá đáp thư như đã nói, khẳng định là Johor “không sở hữu” Pedra Branca. Tòa viết trong phần Kết Luận rằng rất lá thư này “có ý nghĩa lớn” (“has major significance” đoạn 275) và kết luận rằng ở thời điểm 1953 Johor đã hiểu (understood), tức là đã chấp nhận, rằng họ không còn chủ quyền trên Pedra Branca (đoạn 223).

(v) Trong khoảng thời gian 1953-1980 Singapore đã nhiều lần khẳng định chủ quyền trên Pedra Branca nhưng Johor/Malaysia không phản ứng. Không những thế đã có những tài liệu và bản đồ Malaysia cho thấy rằng Pedra Branca thuộc Singapore.

Căn cứ vào quá trình trên, Tòa kết luận rằng vị trí hai bên đã dần dà “tiến hóa hội tụ” (convergent evolution) về một quan điểm chung: chủ quyền Pedra Branca thuộc Singapore. Tuy nhiên Middle Rocks được cho là (vẫn) thuộc về Malaysia, vì không có một quá trình “tiến hóa hội tụ” tương tự.

Có thể tóm tắt phán quyết của Tòa như sau: Johor/Malasia đã mất chủ quyền Pedra Branca vì cách hành xử của họ trong suốt nhiều năm cho thấy rằng họ không còn coi đảo này thuộc về họ.

Nhận xét về phán quyết Pedra Branca

  • Tuy đòi hỏi bằng chứng rõ rệt, không thể nghi ngờ được cho việc thay đổi chủ quyền, nhưng Tòa coi rằng hình thức của bằng chứng (chẳng hạn hiệp ước chính thức) không quan trọng, mà quan trọng là ý định (intention hay understanding) của hai bên, thông qua cách hành xử.
  • Tòa đã xử cho Singapore được chủ quyền Pedra Branca, mặc dù ở thời điểm 1844 chủ quyền thuộc Johor (Malaysia) và sau đó không hề có hiệp ước nào chính thức chuyển nhượng chủ quyền.
  • Tòa không căn cứ vào một văn kiện hay biến cố nào duy nhất, mà căn cứ vào một quá trình theo đó quan điểm của hai bên dần dần thay đổi theo cùng một hướng: sự thụ động của Johor/Malaysia từ 1844 tới 1952, đáp thư Johor 1953, sự thụ động của Malaysia khi Singapore thi hành chủ quyền trong thời gian 1953-1980.
  • Tuy nhiên, tòa coi đáp thư Johor (1953) là “có ý nghĩa lớn” (has major significance) bởi vì nó cho thấy rằng ở thời điểm đó, Johor không còn coi Pedra Branca là của mình nữa.
  • Để ý là Tòa viết (đoạn 222) rằng trong thư này chữ “sở hữu” – ownership – phải hiểu là “chủ quyền” – sovereignty, mặc dù Malaysia đã yêu cầu Tòa phân biệt hai khái niệm đó (đoạn 198): ta thấy là nguyên tắc diễn giải “ít hại nhất” hay “trong bốn góc” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý.
  • Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền (đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì nó chỉ được viết để trả lời một câu hỏi, nên không có tác dụng quyết định về mặt pháp lý (conclusive legal effect)[8].
  • Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor gây ra estoppel (đoạn 227), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì thư đó không hội đủ các điều kiện cho estoppel, đặc biệt là nó đã không khiến cho Singapore làm gì thiệt hại cho mình. [9].
  • Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một hành động đơn phương có tính cách ràng buộc (binding unilateral undertaking) (đoạn 228), nhưng Tòa không đồng ý (đoạn 229) vì đáp thư Johor không viết trong bối cảnh Anh tuyên bố chủ quyền trên Pedra Branca hay đang có tranh chấp, mà chỉ là để trả lời một câu hỏi [8].
  • Tuy ba thỉnh nguyện trên của Singapore bị bác, nhưng điều đó không thay đổi kết quả tối hậu: Malaysia vẫn thua kiện.

Phần III. Vụ án Đông Greenland

Tóm tắt vụ án

Đảo Greenland được người Na Uy khám phá và định cư từ khoảng thế kỷ 10-11. Từ 1380 tới 1814 Na Uy là một phần của Đan Mạch. Đan Mạch đã kiểm soát Greenland và chủ quyền của Đan Mạch được một số nước khác ngầm công nhận (acquiesce). Tuy nhiên, những cơ sở của Đan Mạch đều nằm ở Tây Greenland và do đó Na Uy khi đã độc lập cho rằng Đan Mạch không có chủ quyền ở Đông Greenland. Sau nhiều thương nghị không có kết quả, năm 1931 Đan Mạch đem vụ này ra Tòa Công Lý Quốc Tế Thường Trực (Permanent Court of International Justice), tiền thân của Tòa Án Quốc Tế. Năm 1933 Tòa xử Đan Mạch được chủ quyền toàn đảo Greenland [10].

Câu trả lời của Ngoại trưởng Ihlen

Bài này không đi vào chi tiết vụ án mà chỉ nói về một sự kiện quan trọng mà Tòa cho là có tính cách quyết định. Ngày 14/7/1919 trong một cuộc gặp mặt giữa Ngoại Trưởng Đan Mạch và Ngoại Trưởng Na Uy, Ngoại Trưởng Đan Mạch nói rằng Đan Mạch sắp yêu cầu các nước công nhận chủ quyền Đan Mạch trên toàn thể Greenland, và hy vọng việc này sẽ không gặp khó khăn từ phía Na Uy. Ngoại Trưởng Na Uy, ông Ihlen, nói rằng sẽ xem xét vấn đề, và ngày 22/7, trong một cuộc gặp mặt khác, Ihlen nói rằng Na Uy sẽ không gây khó dễ (“ne fera pas de difficultés”) về vấn đề này. Câu nói này được chính Ngoại Trưởng Ihlen ghi nhận trong một biên bản, mà Tòa dịch từ tiếng Pháp như sau:

“The Danish Government has for some years past been anxious to obtain the recognition of all the interested Powers of Denmark’s sovereignty over the whole of Greenland, and it proposes to place this question before the above-mentioned Committee at the same time. During the negotiations with the U.S.A. over the cession of the Danish West Indies, the Danish Government raised this question in so far as concerns recognition by the Government of the U.S.A., and it succeeded in inducing the latter to agree that, concurrently with the conclusion of a convention regarding the cession of the said islands, it would make a declaration to the effect that the Government of the U.S.A. would not object to the Danish Government extending their political and economic interests to the whole of Greenland.

The Danish Government is confident (he added) that the Norwegian Government will not make any difficulties in the settlement of this question.

I replied that the question would be examined.

14/7 – 19 Ih.”

“II. To-day I informed the Danish Minister that the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question.

22/7 – 19 Ih.”

Tòa nhận xét về câu trả lời của Ihlen như sau (các đoạn đánh số là từ phán quyết quả Tòa [10]):

  • Câu trả lời của Ihlen không có nghĩa là Ihlen công nhận Đan Mạch có chủ quyền Đông Greenland (tức là Ihlen có thể hiểu rằng ở thời điểm đó, Đan Mạch chưa coi là mình có chủ quyền Đông Greenland nhưng đang dự định mở rộng chủ quyền sang đó) (đoạn 188).
  • Tuy nhiên câu trả lời của Ihlen là một lời hứa có tính cách ràng buộc Na Uy, bởi nó xuất phát từ một ngoại trưởng, đứng trên cương vị đại diện nước mình để trả lời đại diện ngoại giao một nước khác, về một vấn đề thuộc thẩm quyền của ông ta. Tòa nhấn mạnh là kết luận này không thể nào chối cãi được (beyond dispute) (đoạn 192).
  • Tòa coi tuyên bố của Ihlen là vô điều kiện và có tính cách quyết định (definitive) (đoạn 195).
  • Do đó, Na Uy không được phản đối hay tranh dành (contest) chủ quyền của Đan Mạch ở Đông Greenland, và dĩ nhiên không được chiếm đóng phần đất nào ở Greenland (đoạn 202).

Nhận xét về phán quyết của Tòa

  • Chỉ một lời nói (có biên bản) của một người có thẩm quyền đại diện quốc gia cũng có thể ràng buộc quốc gia đó về vấn đề chủ quyền. Điều này minh chứng rõ nguyên tắc “Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức” mà ta đã thấy ở Phần II.
  • Điều này cũng cho thấy là quan niệm “mọi sự thay đổi chủ quyền phải do quốc hội phê duyệt” là sai lầm. Quan niệm này đôi khi thấy trong các bài báo Việt Nam.
  • Điều này cũng cho thấy là những bàn cãi trong cộng đồng và truyền thông tiếng Việt về gọi thư Phạm Văn Đồng là công hàm hay công thư là hoàn toàn vô bổ. Dù gọi là gì đi nữa thì nó cũng đã được ký tên và đóng dấu bởi một thủ tướng, người đầy đủ thẩm quyền đại diện chính phủ, và tuyên bố lập trường của chính phủ.

Phần IV. Vụ án đền Preah Vihear

Tóm tắt vụ án

Preah Vihear là một ngôi đền cổ nằm sát biên giới Thái Lan-Cambodia. Đền này xây trên đỉnh một vách đá, cũng là đường phân thủy, chạy đại khái theo hướng đông-tây, nhìn về phía nam (vùng thấp) là Cambodia, nhìn về phía bắc (vùng cao) là Thái Lan.

Năm 1904, Thái Lan và Pháp (đại diện thuộc địa Cambodia) ký một hiệp ước về biên giới, theo đó thì sẽ dùng đường phân thủy làm biên giới ở khu vực này. Hai nước thành lập một ủy ban liên hợp để xác định biên giới. Áp dụng nguyên tắc đường phân thủy thì Preah Vihear thuộc Thái Lan. Tuy nhiên, năm 1907 sở địa đồ Pháp trình ủy ban liên hợp biên giới một địa đồ theo đó thì đường biên giới vẽ chệch về phía bắc đường phân thủy, khiến Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia. Việc đó gây tranh chấp và được đưa ra phân xử tại Tòa án Quốc tế năm 1962. Tòa xử cho chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia [11].

Lý lẽ của Thái Lan

Cambodia chủ yếu dựa vào bản đồ 1907 để chứng tỏ chủ quyền của mình. Những lý lẽ chính của Thái Lan là:

1. Hai nước đã ký hiệp ước thỏa thuận nguyên tắc dùng đường phân thủy làm biên giới, theo đó thì Preah Vihear thuộc Thái Lan. Bản đồ 1907 là do Pháp vẽ và công bố, Thái Lan không dự phần, và đã vẽ sai vì không theo đúng đường phân thủy. Không có văn kiện chính thức nào nói rằng bản đồ này được ủy ban liên hợp 1904 chấp nhận.

2. Thái Lan đã liên tục thi hành chủ quyền ở đền Preah Vihear bằng cách chiếm đóng, quản lý.

Phán quyết của Tòa

Tòa chấp nhận rằng bản đồ 1907 “không có tính cách ràng buộc” ([11], trang 19). Tuy nhiên, nguyên tắc dùng đường phân thủy trong hiệp định biên giới 1904 cũng không ràng buộc nếu cả hai bên thỏa thuận không áp dụng nó trong trường hợp nào đó (“it was certainly within the power of the Governments to adopt such departures”) ([11], trang 20). Vấn đề là có sự thỏa thuận này không ở Preah Vihear, và điều này tùy thuộc vào ủy ban liên hợp 1904.

Tòa nhận xét rằng:

  • Bản đồ 1907 đã được trình cho mọi thành viên ủy ban liên hợp 1904 và công bố rất trọng thể, gửi cho nhiều sứ quán Thái Lan và nhiều cơ quan quốc tế. Tuy nhiên, không có lời phản đối nào từ Thái Lan. Tòa cho rằng do đó Thái Lan đã đồng ý ngầm (acquiesce).
  • Thái Lan nói rằng chỉ những viên chức thấp của họ thấy bản đồ 1907. Tòa cho rằng đó là lỗi của Thái Lan, nước này phải chịu hậu quả. Hơn nữa, sự sai biệt giữa đường biên giới và đường phân thủy quá rõ rệt nên không thể viện cớ lầm lẫn ([11], trang 24).
  • Năm 1934-35, Thái Lan tự làm bản đồ lấy và nhận thấy sự sai biệt, nhưng vẫn không nói gì.
  • Năm 1937, Thái Lan vẽ một bản đồ cho thấy Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia.
  • Năm 1947 Thái Lan và Pháp thương nghị ở Washington để hòa giải về các vấn đề biên giới, nhưng Thái Lan không đưa ra vấn đề Preah Vihear.
  • Chuyến viếng thăm đền của bộ trưởng nội vụ Damrong năm 1930 như là khách của Pháp được coi là đặc biệt quan trọng. Năm 1930, một công sứ Pháp tại Cambodia lấy tư cách “chủ nhà” mời Hoàng thân Damrong, bộ trưởng nội vụ Thái Lan, tới thăm Preah Vihear và trương cờ Pháp tại đó. Ông này tới thăm mà không nói gì để khẳng định chủ quyền của Thái Lan. Tòa viết như sau: “Khó có thể tưởng tượng một sự khẳng định chủ quyền rõ ràng hơn thế từ phía Pháp. Việc đó đòi hỏi một phản ứng. Thái Lan đã không làm gì”, và việc đó cho thấy có vẻ Thái Lan đã “ngầm công nhận” (tacit recognition) chủ quyền của Cambodia trên Preah Vihear.

(When the Prince arrived at Preah Vihear, he was officially received there by the French Resident for the adjoining Cambodian province, on behalf of the Resident Superior, with the French flag flying. The Prince could not possibly have failed to see the implications of a reception of this character. A clearer affirmation of title on the French Indo-Chinese side can scarcely be imagined. It demanded a reaction. Thailand did nothing. Furthermore, when Prince Damrong on his return to Bangkok sent the French Resident some photographs of the occasion, he used language which seems to admit that France, through her Resident, had acted as the host country. The explanations regarding Prince Damrong’s visit given on behalf of Thailand have not been found convincing by the Court. Looking at the incident as a whole, it appears to have amounted to a tacit recognition by Siam of the sovereignty of Cambodia (under French Protectorate) over Preah Vihear, through a failure to react in any way, on an occasion that called for a reaction in order to affirm or preserve title in the face of an obvious rival claim.)

  • Về việc Thái Lan đã chiếm đóng hay quản lý Preah Vihear, Tòa cho là những hành động này thường là do chính quyền địa phương, và không đủ để triệt tiêu (cancel out) lối hành xử im lặng của chính quyền trung ương.
  • Năm 1949, Pháp viết thư cho Thái Lan yêu cầu rút lính gác Thái khỏi đền, nhưng Thái Lan không trả lời.
  • Năm 1954 Cambodia (mới độc lập) gửi một lá thư tương tự, nhưng Thái Lan không trả lời.

Vì những lý do trên Tòa phán quyết với đa số 9/3 rằng chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia.

Nhận xét về phán quyết Preah Vihear

  • Thái Lan và Pháp (đại diện Cambodia) đã ký hiệp ước biên giới ghi rõ là đường biên giới đi theo đường phân thủy, và theo điều khoản đó thì Preah Vihear phải thuộc về Thái Lan.
  • Thái Lan không hề ký một hiệp ước hay có một tuyên bố đơn phương nào từ bỏ chủ quyền Preah Vihear.
  • Tuy nhiên, dùng nguyên tắc acquiescence (đồng ý ngầm), Tòa đã cho rằng Thái Lan không có chủ quyền vì đã nhiều lần không phản ứng trước những hành động hay tài liệu có thể hiểu là khẳng định chủ quyền của Pháp hay Cambodia.
  • Tòa cho rằng hành động chiếm đóng hay quản lý của Thái Lan không đủ để triệt tiêu thái độ im lặng, ngầm đồng ý của nước này khi cần phải có phản ứng.

KẾT LUẬN

1. Về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Tòa Án Quốc Tế dựa vào nội dung và ý định trong các văn kiện, cũng như vào các hành động và sự kiện, hơn là vào hình thức văn kiện.

2. “Ý định” phải hiểu là ý định diễn tả trong văn kiện, chứ không phải ý định ngầm của kẻ muốn dấu diếm hay ngần ngại thổ lộ ý định thật như có người đã giải thích.

3. Những nguyên tắc “chỉ đọc trong bốn góc của văn bản”, “phải hiểu cách nào ít hại nhất cho người viết” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý (xem cách Tòa diễn giải lá thư của Johor trong vụ Pedra Branca).

4. Chỉ một lời nói (có biên bản) của một đại diện có thẩm quyền (như ngoại trưởng) cũng có thể ràng buộc một quốc gia về vấn đề chủ quyền (xem vụ Đông Greenland).

5. Acquiescence – đồng ý ngầm, không nói gì khi cần thiết phải nói, tức là khi nước khác khẳng định chủ quyền trên đất của mình hay đất có tranh chấp bằng văn kiện hày hành động – cũng có tác dụng như là lời nói hay văn kiện. Điều này được thấy rõ trong vụ án đền Preah Vihear, khi Thái Lan thua kiện dù không hề có tuyên bố gì từ bỏ chủ quyền.

6. Thư Phạm Văn Đồng không phản đối khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa – Trường Sa, nên có thể bị coi là acquiescence.

7. Hơn thế nữa, thư Phạm Văn Đồng có thể coi là đã tán thành rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.

8. Thư Phạm Văn Đồng không thể coi là một hiệp ước hay văn kiện chính thức nhường chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa cho Trung Quốc. Do đó, dùng những công ước về hiệp ước quốc tế để tìm hiểu tác dụng thư này chưa chắc sẽ đưa đến những kết luận chính xác.

9. Thư Phạm Văn Đồng có lẽ không đủ để gây ra estoppel khiến Việt Nam không có quyền tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa.

10. Tuy nhiên, nếu thư Phạm Văn Đồng là một yếu tố khiến Trung Quốc giúp Việt Nam Dân Shủ Cộng Sòa trong chiến tranh Việt Mỹ, gây tổn thương cho binh lính hay nhân viên Trung Quốc trong cuộc chiến đó, thì có thể estoppel sẽ được áp dụng [9]. (Điều tai hại là chính người Việt cũng có khi đưa ra lý lẽ này để giải thích thư Phạm Văn Đồng!)

11. Tuy nhiên, tập trung vào khía cạnh estoppel của thư Phạm Văn Đồng là một việc sai lầm. Nguy hiểm chính của nó không ở chỗ đó.

12. Kết hợp thư Phạm Văn Đồng với các hành động và thái độ khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1954-75, nhất là sự im lặng trong trận chiến Hoàng Sa 1974, nếu đem xử về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa ở Tòa án Quốc tế sẽ có khả năng không nhỏ là tòa sẽ xử rằng từ 1954 tới 1975 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chấp nhận chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa thuộc về Trung Quốc.

13. Ngay cả khi Tòa cho rằng thư Phạm Văn Đồng không có ý định nói gì về chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa, kết luận 12 ở trên vẫn chính xác (vì lý do đã nói ở kết luận 5).

14. Nếu đem xử về chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa ở Tòa Án Quốc Tế mà đứng trên quan điểm Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hoàn toàn là kế tục (continuation, successor) của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và không kế tục quốc gia nào khác, thì có khả năng không nhỏ là Việt Nam thua kiện và mất hẳn chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.

Phạm Quang Tuấn

______________________________________

CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU

[1] Ngay sau khi lá thư của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng được gửi đi, báo Nhân Dân gọi nó là “công hàm”. Từ này sau đó được dùng rộng rãi. Gần đây truyền thông trong nước thường gọi nó là công thư. Các nhà nghiên cứu và truyền thông ngoại quốc thường chỉ gọi là “Phạm Văn Đồng letter”, cũng đôi khi gọi là diplomatic note. Trong cộng đồng Việt Nam, cách gọi lá thư gần đây đã gây nhiều tranh cãi, nhiều người cho rằng không gọi nó là công hàm tức là cố ý giảm thiểu tầm quan trọng hay chính thức của nó. Bài này sẽ theo tập tục ngoại quốc và gọi là “thư Phạm Văn Đồng”. Như bài này sẽ cho thấy, dù gọi nó là gì thì giá trị pháp lý của nó cũng không thay đổi.

[2] www.state.gov/documents/organization/58832.pdf

[3] Nguyen Le Ha, Giá trị pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng theo luật pháp quốc tế và cơ hội ngàn vàng để Việt Nam xác quyết chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa

http://boxitvn.blogspot.fr/2014/07/gia-tri-phap-ly-cong-ham-pham-van-ong.html

[4] Cao Huy Thuần, Công hàm Phạm Văn Đồng – Góp ý về việc giải thích.

http://www.diendan.org/viet-nam/gop-y-ve-viec-giai-thich-cong-ham-pham-van-dong.

[5] V. Lowe, International Law, OUP, 2007 pp. 116-117

[6] International Court Of Justice (2008) Case Concerning Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment of 23 May 2008. http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf

[7] Y. Tanaka (2008) Passing of Sovereignty: the Malaysia/Singapore Territorial Dispute before the ICJ. http://www.haguejusticeportal.net/index.php?id=9665

[8] Việc Tòa không chấp nhận ba thỉnh cầu của Singapore coi đáp thư là văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền, là ràng buộc hay gây estoppel có thể hơi khó hiểu nên cần biết chính xác là câu hỏi trong lá thư của Anh nói gì. Nguyên văn câu hỏi như sau: “It is [now] desired to clarify the status of Pedra Branca. I would therefore be most grateful to know whether there is any document showing a lease or grant of the rock or whether it has been ceded by the Government of the State of Johore or in any other way disposed of.” Câu hỏi đó không nói rằng Anh có hay đòi chủ quyền Pedra Branca, mà chỉ hỏi là Johor có còn giữ chủ quyền hay không, và do đó Tòa đã đi tới những kết luận như trên.

[9] Trong luật quốc tế, estoppel là sự ngăn cấm một nước (A) không được có những hành động mâu thuẫn gây hại cho nước (B) khác, cụ thể là không thể làm ngược những gì mình đã nói. Estoppel đòi hỏi ba yếu tố: thứ nhất, lời tuyên bố của A phải rõ ràng, không thể hiểu lầm; thứ hai, lời tuyên bố phải tự nguyện, vô điều kiện, và bởi người có thẩm quyền; và cuối cùng, B phải làm gì thiệt cho mình hoặc lợi cho A vì đã thực lòng tin vào lời tuyên bố của A. (First, the statement creating the estoppel must be clear and unambiguous; second, the statement must be voluntary, unconditional, and authorized; and finally, there must be good faith reliance upon the representation of one party by the other party either to the detriment of the relying party or to the advantage of the party making the representation.) (M.L. Wagner (1986) Jurisdiction by Estoppel in the International Court of Justice. California Law Review Volume 74, 1777-1804.)

[10] Permanent Court of International Justice (1933) Legal Status of Eastern Greenland – Denmark v. Norway, Judgment. http://www.worldcourts.com/pcij/eng/decisions/1933.04.05_greenland.htm

[11] International Court Of Justice (1962) Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4871.pdf.

[12] Article ler: La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la rive gauche du Grand Lac, de l’embouchure de la rivière Stung Roluos, elle suit le parallèle de ce point dans la direction de l’est jusqu’à la rencontre de la riière Prék Kompong Tiam, puis, remontant vers le nord, elle se confond avec le méridien de ce point de rencontre jusqu’à la chaîne de montagnes Pnom Dang Rek. De là elle suit la ligne de partage des eaux entre les bassins du Nam Sen et du Mékong, d’une part, et du Nam Moun, d’autre part, et rejoint la chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête vers l’est jusqu’au Mékong. En amont de ce point, le Mékong reste la frontière du royaume de Siam, conformément à l’article ler du traité du 3 octobre 1893. (theo [10], trang 14)

 

———–

 

Khách Kẹt Đường  gửi lúc 21:38, 26/07/2014 – mã số 124091

Thành thật mà nói, những điều Tiến sĩ PHẠM QUANG TUẤN nói trong bài cũng không phải MỚI MẺ gì cả, vì rải rác đó đây, các học giả TRƯƠNG NHÂN TUẤN và DƯƠNG DANH HUY cũng từng đã nêu ra và phân tích ba án lệ trong bài. Tuy nhiên, cách viết của Tiến sĩ PHẠM QUANG TUẤN rất rõ ràng, dễ hiểu, và mang tính thuyết phục vô cùng lớn. Đây là điểm mà tôi rất trân trọng và cám ơn ông. Phải nói rằng, Tiến sĩ PHẠM QUANG TUẤN, tuy viết ít, nhưng bài nào của ông cũng rất xuất sắc và đóng góp rất lớn vào tiến trình giải thể ĐCSVN.

Điều tôi ngạc nhiên nhất là ý kiến của Giáo sư NGUYỄN HUỆ CHI trong phần dẫn nhập (introduction) cho bài của Tiến sĩ PHẠM QUANG TUẤN. Là một Giáo sư, đã đọc nhiều bài về công hàm Phạm Văn Đồng từ cả chục năm qua, mà mãi đến tận bây giờ Giáo sư HUỆ CHI mới nhận ra chân tướng phản quốc của những người như ông Phạm Văn Đồng và bộ sậu gồm các đồng chí của cụ ĐỒNG trong Bộ Chính Trị đảng Lao Động VN (kể cả “kụ” Hồ, “kụ” Giáp) thì e rằng Giáo sư tuy thông minh nhưng có phần hơi chậm hiểu. Tôi tự hỏi điều gì đã làm Giáo sư và quý ngài trí thức của chế độ chậm hiểu đến thế. Phải chăng đó là ảnh hưởng của nền giáo dục XHCN mà quý ngài đã hấp thụ từ thời trai trẻ. Hay là vì hào quang chói lòa của đấng “lãnh tụ vĩ đại” đã làm hoa mắt quý vị? Buồn thay!

————–

Lào Xào gửi lúc 22:23, 26/07/2014 – mã số 124094
Nguyễn Huệ Chi viết:

“Thử nghĩ, công thư của một ông Thủ tướng là “phản động”, “phản quốc” thì bản thân ông Thủ tướng và bộ sậu Chính phủ của ông ta là gì?”

Tại sao GS Chi chỉ nhắm vào ông PVĐ, trên ông này là ông Hồ nữa. Hay GS Chi sợ đụng chạm?

Nguyễn Huệ Chi viết:

“Càng ngày càng thấy cái gọi bằng liên minh cộng sản nhân danh chủ nghĩa vô sản quốc tế trong thế kỷ XX chỉ ẩn giấu phía sau độc nhất mỗi mưu đồ thôn tính lãnh thổ của nước lớn đối với nước nhỏ.”

Điệu Tango cần có hai người. Đã đành là Tàu+ muốn thôn tính nước ta,nhưng trách nhiệm của thầy trò Hồ không thể bỏ qua.
Trên nhận xét này, GS Chi tự mâu thuẫn trong lập luận của ông khi sau đó viết:

Nguyễn Huệ Chi viết:

“Ngu dại thay những ai vì quá nôn nóng tìm đường cứu nước vào những năm 20-30 thế kỷ trước, đem tấm lòng nhiệt huyết băng vời sang Tàu sang Nga để chỉ mua lấy một sợi dây thừng về quấn chân dân tộc.”

“Tìm đường cứu nước” để dẫn đến hành động bán nước (qua công hàm của Đồng và những hành động củ đcs hiện nay), vậy có nên gọi là cứu nước?

Trở lại bài viết của học giả Tuấn:

Một bài viết mạch lạc; tài liệu, chứng cứ rõ ràng, không cảm tính, không thiên vị. Hy vọng nó giúp ích rất nhiều cho nhận định về đcs VN.

————

TQVN  gửi lúc 23:23, 26/07/2014 – mã số 124096

Bác Khách Kẹt Đường,

Có thể do điều kiện và phương tiện bác “sáng” hơn nhiều người. Tôi cũng từng hơi ngu là không nhìn thấy chân tướng của ông Hồ cho đến khi được tiếp cận được nhiều thông tin về ông ấy. Những việc bác Huệ Chi đã và đang làm, theo tôi là đáng mừng vả đáng trân trọng, nhất là suy tư: Ngu dại thay những ai vì quá nôn nóng tìm đường cứu nước vào những năm 20-30 thế kỷ trước, đem tấm lòng nhiệt huyết băng vời sang Tàu sang Nga để chỉ mua lấy một sợi dây thừng về quấn chân dân tộc. Thiển nghĩ tất cả trí thức XHCN trong và ngoài ĐCSVN (kể cả trên DL và đang sống ở hải ngoại!) có suy tư và hành động như bác Huệ Chi cũng cho thấy một phần ánh sáng trong đường hầm đen tối cho dân tộc Việt Nam!

————

Hồ Gươm gửi lúc 07:05, 27/07/2014 – mã số 124117

Chào các bác,

Tôi đã chỉnh sửa lại bài viết này theo yêu cầu của tác giả Phạm Quang Tuấn vì CTV (cộng tác viên) của Dân Luận khi dẫn bài này từ trang BauxiteVN đã có một vài thiếu sót nhỏ có thể khiến bạn đọc khó theo dõi, ngoài ra bài viết được gửi tới Dân Luận tác giả có thêm một vài bổ xung.

Vì lý do đó cho nên tôi bỏ phần dẫn nguồn từ trang BauxiteVN mà dẫn nguồn của Dân Luận và bởi vậy, tôi cũng bỏ phần lời dẫn nhập của gs Nguyễn Huệ Chi có trong bài viết được phổ biến trên trang BauxiteVN.

Thân mến

HG

———–

Hà Hiển gửi lúc 13:26, 27/07/2014 – mã số 124131

Tóm lại, bài viết của tác giả cuối cùng đưa đến 14 kết luận và tất cả các kết luận này đều hỗ trợ cho ý kiến bao trùm của bài viết rằng viẹc kiện TQ sẽ là vô vọng, khả năng VN sẽ thua kiện là rất nhiều nếu như dựa vào lập luận của CHXHCN Việt Nam.

Với tư cách là một luật sư thì bài viết như thế là đầy đủ với mục đích phản biện lại quan điểm của nhà nước VN hiện thời. Những ý kiến tác giả nêu ra rất đáng tham khả, xứng đáng là một tài liệu phản biện rất có giá trị.

Với vai trò phản biện của một luật sư thì bài viết đã hoàn hảo. Những tranh cãi, nếu có về chuyện học thuật xin giành cho những người thông tỏ về công pháp quốc tế. Nhưng vì tác giả không chỉ là luật sư mà là một luật sư người Việt, điều tôi chờ đợi tiếp ở tác giả là sau bài này, tác giả tiếp tục có một bài viết nữa mà ở đó tác giả tư vấn một giải pháp nào đó để giúp cho Việt Nam khả dĩ có thể thắng kiện TQ theo những lập luận của các vị khác với quan điểm hiện nay của nhà nước.

Và không chỉ đối với ông Phạm Quang Tuấn, Trương Nhân Tuấn, điều người ta mong đợi ở tất cả các luật sư NGƯỜI VIỆT là sau những tranh cãi về học thuật, các vị đưa ra những giải pháp có TÍNH THỰC TIỄN để giúp nước. Mục đích cuối cùng của các luật sư, theo tôi không phải là sự đua tranh hơn kém về mặt học thuật với nhau và với người đọc mà là đưa ra những giải pháp bảo vệ cho thân chủ của mình một cách tốt nhất, là “hóa giải” những lập luận của phía đối phương. Và tôi nghĩ “thân chủ” của các vị hẳn phải là tổ quốc Việt Nam.

Trân trọng.

———–

NJ  gửi lúc 16:31, 27/07/2014 – mã số 124140
TVVN viết:

“-Có một điều tôi cảm thấy rất ngạc nhiên mà vẫn chưa tự giải thích được.
Không hiểu tại sao vào lúc này có nhiều “chiên gia”, “luật sư”, “nhà nghiên cứu” đồng loạt lên tiếng thúc dục đảng ta khởi kiện mà họ thừa biết rằng:-Điều kiện tiên quyết để kiện là không có, cả hai phía đều không công nhận tòa.

-Chẳng có bên nào có lý lẽ chắc chắn dựa trên luật quốc tế, nếu không muốn nói là phía VN có vẻ đuối hơn do CHPVĐ.”

Thật tình, tôi chẳng muốn còm hay phản biện về đề tài này nữa, vì các lý do trên.

Mặc dầu vậy, tôi xin bổ túc thêm,

phía VN yếu hơn, không chỉ vì công hàm/công thư/thư PVĐ,

mà còn vì sự im lặng mang tính chấp nhận, đồng thuận

từ phía VNDCCH khi VNCH mất Hoàng Sa năm 1974 (bài chủ có nói)

nhà nước CHXHCN VN khi Trường Sa bị TQ cưỡng chiếm bằng bạo lực năm 1988.

Cuộc chiến năm 1988 tuy được báo chí đăng tải, nhưng nhà nước CHXHCN VN đã không lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng này của TQ.

Bác nào tìm được một công văn, công thư chính thức nào của nhà nước CHXHCNVN với nội dung tố cáo giặc TQ xâm lăng, cướp đảo Gạc Ma của VN, hãy đưa lên mạng để minh oan cho nhà nước CHXHCN VN. Công văn chính thức chứ không phải bản tin trên báo nào đó của 700 tờ báo ở VN.

Nhà nước CHXHCNVN chỉ mới lên tiếng những năm gần đây.
Những tuyên bố miệng chứ không có công văn, công thư, thư chính thức nào.

Những tuyên bố này không có giá trị vì sự im lặng đồng thuận quá lâu.

Nguyễn Jung

————–

Hà Hiển  gửi lúc 18:22, 27/07/2014 – mã số 124145

Đồng ý với tác giả khi ông viết : “Trong bối cảnh Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này như một cố gắng kiểm điểm áo giáp của mình trước khi ra trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm cách vá lại. Nếu tìm ra lỗ thủng thì “Việt gian” “thân Tàu” không phải là người kiểm điểm, mà chính là người gây ra lỗ thủng.”

Nhưng tiếc là với bài viết này tác giả mới cố gắng tìm ra các “lỗ thủng” theo cách nhìn của ông chứ người đọc chưa thấy tác giả “vá lại” ở đâu hoặc đưa ra cách thức “vá lại” như thế nào. Đó phải chăng cũng là điều rất đáng phải kiểm điểm lúc này cho những tác giả của những bài viết kiểu như thế này! Việc kiểm điểm “người gây ra lỗ thủng” tất nhiên là việc không thể trốn tránh, nhưng phải chăng đó là việc trong nhà, không “xử” lúc này thì lúc khác, thiết nghĩ chưa phải là việc ưu tiên cao nhất cần phải làm hiện nay.

————

Ấy Mới Chết Tôi Chứ !!!  gửi lúc 20:55, 27/07/2014 – mã số 124154

Cơm nước xong vào DL vẫn thấy một sự im lặng hoàn toàn. Trong lúc chờ đợi sự im lặng là vàng chấm dứt, tạm sửa câu giáo đầu này lại:

“Trong bối cảnh Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này như một cố gắng kiểm điểm áo giáp của mình trước khi ra trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm cách vá lại. Nếu tìm ra lỗ thủng thì “Việt gian” “thân Tàu” không phải là người gây ra lỗ thủng , mà chính là người kiểm điểm.”

Nhân tiện, làm con bò nhai lại lần thứ hai:

Phạm Quang Tuấn viết:

“Có người cho rằng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không cần thiết phải tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa – Trường Sa vì những đảo này đang dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa. Lý luận như vậy là lẫn lộn chủ quyền với sự quản lý. Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nói rõ rằng nước Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân chia, tức là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tự coi là có chủ quyền trên mọi phần đất Việt Nam từ bắc tới nam, và mọi hải đảo“.

Ấy Mới Chết Tôi Chứ !!! viết:

“Rất tiếc đây chỉ là lý luận một chiều. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa cũng nói rõ rằng nước Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân chia. Trích nguyên văn tiếng Anh: “Viet-Nam is an independent Republic, one and indivisible”.

Dựa vào hiến pháp của cả VNCH và VNDCCH thì có cả 2 thực thể chính trị đều cùng tồn tại ở bên đây và bên kia vĩ tuyến 17, và cả 2 đều nhận là đại diện của một nước Việt Nam thống nhất không thể phân chia.

Vậy thì có 2 “state” ở trên bản đồ hình chữ S, hay là chỉ duy nhất 1 “state” và nếu chỉ duy nhất 1 “state” thì VNCH hay VNDCCH là 1 “state” duy nhất này?”

—————-

NGT  gửi lúc 22:42, 27/07/2014 – mã số 124157

Trong thời gian chờ đợi các comments, bác đọc tài liệu này do bác Khách giới thiệu ở Quán Nước DL.

https://www.danluan.org/tin-tuc/20090201/quan-nuoc-dan-luan#comment-124135

The Spratly Islands Dispute: International Law, Conflicting Claims, and Alternative Frameworks For Dispute Resolution

Robin Gonzales
University of Nevada, Las Vegas, gonza971@unlv.nevada.edu

Posted in Uncategorized | Leave a Comment »

►Lãnh đạo nào của Việt Nam chỉ đạo ngăn chặn công dân tiếp xúc Báo cáo viên Liên hiệp quốc?

Posted by hoangtran204 trên 27/07/2014

 

Lãnh đạo nào của Việt Nam chỉ đạo ngăn chặn công dân tiếp xúc Báo cáo viên Liên hiệp quốc?

 27-7-2014
Phạm Chí Dũng
.

.

Vụ việc Công an TP.HCM và công an một số địa phương ngăn chặn không cho ra khỏi nhà đối với những người đấu tranh dân chủ vào ngày 25/7/2014 và cả một số ngày sau đó là bằng chứng mới nhất, sống động nhất và cũng lộ liễu nhất về việc “Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người”.

Ngày 25/7 cũng là thời điểm mà một đoàn giám sát về tự do tôn giáo của Liên hiệp quốc dẫn đầu bởi ông Heiner Biederfeldt, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ, vào TP. HCM để gặp gỡ một số chức sắc tôn giáo và nhân chứng, nhằm kiểm chứng tính thực chất về việc “Việt Nam chấp nhận các khuyến nghị của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc” là như thế nào.

Không chỉ bác sĩ Nguyễn Đan Quế, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, bà Dương Thị Tân (vợ tù nhân Điếu Cày Nguyễn Văn Hải), cựu tù nhân chính trị Phạm Bá Hải, mà hai mục sư Tin Lành là Nguyễn Hoàng Hoa và Nguyễn Mạnh Hùng cũng bị công an địa phương ngăn chặn ngay tại nhà riêng nhằm không cho tiếp xúc với ông Heiner Biederfeldt – Báo cáo viên đặc biệt của LHQ. Bất cứ động tác nào của công dân hợp pháp muốn rời khỏi nhà đều bị nhân viên an ninh và cảnh sát xô đẩy bằng hành vi thô bạo và hoàn toàn bất hợp pháp.

Vi phạm cam kết

Trước khi được chấp thuận tham gia chính thức vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, Nhà nước Việt Nam đã cam kết trước chủ tịch Hội đồng nhân quyền 14 điều, trong đó có nội dung sẽ mời báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo đến Việt Nam, và “sẽ tạo điều kiện tốt nhất” để báo cáo viên này được tiếp xúc với những ai mà Liên hiệp quốc thấy cần gặp.

Vào nửa đầu năm 2014, cam kết trên được giới lãnh đạo cao cấp Việt Nam là ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước, và ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ, cùng Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam nhiệt tình lặp lại trong những cuộc làm việc với Thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Wendy Sherman và Cố vấn đặc biệt của Chính phủ Hoa Kỳ. Cam kết về tự do tôn giáo cũng được đưa vào báo cáo chính thức của Phái đoàn Việt Nam tại buổi xem xét báo cáo đầu ra của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc vào tháng 6/2014 tại Thụy Sĩ.

Một ủy viên Bộ chính trị khác và được xem là ứng viên tiềm tàng cho cương vị Tổng bí thư tại đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 vào năm 2016 – ông Phạm Quang Nghị – cũng vừa đưa ra khẩu hiệu “Việt Nam luôn bảo đảm nhân quyền” trong chuyến công du của ông ở Hoa Kỳ vào thời gian này.

Để có được sự thuận thảo của các quốc gia trong khối Hiệp định đối tác thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Nhà nước Việt Nam đã chấp nhận tham gia vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc cùng các điều kiện về nhân quyền và dân chủ hợp lý mà cộng đồng quốc tế đòi hỏi. Tuy nhiên, bằng chứng ngăn chặn công dân mới nhất vừa nêu đã cho thấy đối với giới lãnh đạo cao cấp Việt Nam, nói làm vẫn là hai hành vi khác nhau về bản chất, không chỉ bản chất chính trị mà cả về tư cách chính khách.

Tư cách chính khách?

Sự khác biệt quá cơ bản về bản chất trên có lẽ đã là nguyên do đủ nặng ký để Nhà nước Úc, dù trước đây khá nhã nhặn với chính quyền Việt Nam, nay cũng phải tỏ thái độ kiên quyết hơn trong việc đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng hơn nữa các quyền con người.

Ngay trước thềm cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Úc sẽ diễn ra vào cuối tháng 7/2014, chính quyền Việt Nam lại ghi thêm một điểm rất xấu về “thành tích” vi phạm nhân quyền. Việc vi phạm không chỉ lần đầu và mang tính hệ thống như thế tất yếu dẫn đến những câu hỏi không thể lảng tránh:

1. Việc ngăn chặn bất hợp pháp đối với công dân như trên là do Công an TP. HCM và công an một số địa phương “chủ động biện pháp nghiệp vụ”, hay những cơ quan công an này được chỉ đạo bởi những cấp lãnh đạo nào?

2. Nếu cơ quan công an được chỉ đạo, vậy những lãnh đạo nào của Việt Nam đã chỉ đạo ngăn chặn công dân tiếp xúc với Báo cáo viên Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo?

3. Nếu việc chỉ đạo ngăn chặn công dân như thế thuộc về trách nhiệm của lãnh đạo Việt Nam – những người vẫn thường ra mặt hứa hẹn với Liên hiệp quốc và Hoa Kỳ 14 điều cam kết về nhân quyền, liệu Liên hiệp quốc và chính giới phương Tây nên có cái nhìn sâu xa và rạch ròi đến mức nào đối với những lãnh đạo ấy, kể cả một cái nhìn liên đới với hai dự luật Nhân quyền Việt Nam và Chế tài nhân quyền Việt Nam còn đang treo ở Thượng nghị viện Mỹ?

.

Phạm Chí Dũng
Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam
Phát ngôn viên Hội Cựu tù nhân lương tâm Việt Nam
Thành viên Diễn đàn Xã hội dân sự Việt Nam

* * *

Pham Chi Dung – What government leaders of Vietnam ordered to prevent citizens from meeting UN Rapporteur?

Ho Chi Minh City Department of Police and some local policemen barred some pro-democracy activists from going out of home from July 25, 2014 to some days later it’s the latest, liveliest and most blatant example about “State of Vietnam always respects and guarantees human rights.”

On July 25, Mr. Heiner Biederfeldt, the UN Special Rapporteur on freedom of religion arrived HCM city to meet a number of religious leaders and witnesses to verify how the nature of the “Vietnam accepted the recommendations of the Human Rights Council of the United Nations” is.

Not only Dr. Nguyen Dan Que, independent journalist Pham Chi Dung, Mrs. Duong Thi Tan(ex-wife prisoner Nguyen Van Hai Dieu Cay), former prisoner of conscience Pham Ba Hai were prevented at their home gate, but also two Protestant pastor Nguyen Hoang Hoa and Nguyen Manh Hung did. Any movement of legitimate citizens to go out one’s houses was pushed inside by security policemen rudely and entirely illegally.

Breached its Commitment

Before being formally approved to be a member of the Human Rights Council of the UN, the Vietnam authorities committed 14 conditions, including inviting the UN special rapporteurs of religious freedom to Vietnam, and “creating the best conditions” so that he can meet anyone necessarily.

In the first half of 2014, the above commitment was reiterated by the high-level leaders, President Truong Tan Sang, PM. Nguyen Tan Dung, the Foreign Ministry and the Ministry of Public Security in the meeting with U.S. Deputy Secretary of State Wendy Sherman and Special Advisor to the Government of the United States. Commitment to religious freedom also integrated in the official report of the Vietnam delegation at the UN Human Rights Council in June 2014, Switzerland.

One other member of Politburo Mr. Pham Quang Nghi, considered as a potential candidate for General Secretary of the Communist party in the 12th congress in 2016, also just launched the slogan “Vietnam always ensures human rights” in his tour to the United States recently.

By the agreement of nations within Trans-Pacific Partnership (TPP), the State of Vietnam was accepted to participate in the Human Rights Council at the United Nations with condition that it meets human rights and democracy the international community requires. However, the most last evidence to prevent citizens mentioned has shown that to senior leaders in Vietnam, “say and do” are still two different acts, politically and morally.

Morality of politician?

The said difference may be the reason that Australia, though formerly quite courteous to the government of Vietnam, expressed their stronger stance in demanding the Vietnam state should respect more human rights.

Ahead of the human rights dialogue between Vietnam and Australia on late July 2014, Vietnam government scored a very bad point about the “achievement” of human rights violations. Such not-to-be-the-first violation but systemic, inevitably leads to questions can not be avoided:

1. Illegal prevention with “actively operational measures” to the above citizens executed by either themselves – the HCMC police and some local police or order from the higher levels?

2. If the police was directed, so what leaders of Vietnam have instructed to prevent citizens contacting with the UN Rapporteur on freedom of religion?

3. If such direction to prevent citizens is the responsibility of Vietnam’s leaders who often come out promising with the UN and the U.S. about 14 commitments on human rights, what extend the UN and the Western world should have a deep and sharp look at these leaders, including a link with two bills, Vietnam human Rights Act and the Vietnam Human Rights Sanctions, are still pending in U.S. Senate?

Pham Chi Dung, PhD.
President of Independent Journalists Association of Vietnam
Spokesman of Former Vietnamese Prisoner of Conscience
Member of Vietnam’s Civil Society Forum

Translated by Trang Thien Long

Posted in Biển Đông: Hoàng Sa và Trường Sa | Leave a Comment »

►Tương lai nào cho luật sư Việt Nam (Ngô Ngọc Trai) – Tưởng niệm Giáo sư Vũ Văn Mẫu (Lê Công Đinh)

Posted by hoangtran204 trên 25/07/2014

Để giúp bạn đọc dễ so sánh, Trần Hoàng đặt 2 bài viết này trên cùng 1 trang. Bạn đọc muốn tìm các bài cùng 1 chủ đề, bạn click vào chủ đề ấy bên phần DANH MỤC bên tay trái; chủ đề của bài viết cũng được tìm thấy ở cuối cùng của bài viêt (Post in _____ )

Tương lai nào cho luật sư Việt Nam

24-7-2014

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Theo blog Ngô Ngọc Trai

Trong buổi tọa đàm giữa Đoàn luật sư Hà Nội và Đoàn luật sư thành phố Pari của Pháp, cử tọa hết sức thán phục khi được biết Đoàn luật sư Pari có lịch sử đã 800 năm.

Hãy hình dung, khi mà vua quan quân lính nhà Trần còn đang rong ruổi thanh gươm yên ngựa để chống giặc, thì ở thủ đô Pari của nước Pháp, đã có những người mặc áo lông choàng đứng ở phiên tòa mà biện hộ cho người bị cáo.

Tức là khi ở Việt Nam sự sống còn của quốc gia dân tộc còn chưa được đảm bảo chứ đừng nói gì đến quyền của kẻ tội nhân ở chốn công đường, thì ở nước Pháp đã hình thành nên một thiết chế mà sự đúng đắn là bệ đỡ đã giúp nó tồn tại cho tới tận ngày nay.

Vai trò thủ lĩnh

Suốt lịch sử 800 năm hẳn những người luật sư của Pari đã đối diện với biết bao biến động thời cuộc. Để có thể vượt qua được mọi sóng gió như thế, hẳn là có nhiều nguồn sức mạnh trụ đỡ.

Một nguồn sức mạnh cho nghề luật sư đó là nghề nghiệp này mang tính chính đáng nghĩa hiệp, phù hợp với luân thường đạo lý con người khi một người đứng ra bảo vệ cho kẻ yếu trước một sức mạnh áp đảo là cường quyền.

Nhưng chỉ sức mạnh từ luân lý sẽ không đủ để đoàn luật sư Pari tồn tại được cho tới ngày nay. Mà nó còn được dẫn dắt bởi những thế hệ người thủ lĩnh đoàn với đầy đủ tư cách đạo đức và sự uyên bác về trí tuệ.

Những thế hệ người thủ lĩnh chắc chắn phải nhận được sự tín nhiệm của các thành viên, được sự kính nể của cơ quan tư pháp đương quyền, có như thế tiếng nói và hành động mới có trọng lượng và sức thuyết phục.

Ví như các vị vua đời đầu của nhà Trần hoặc vị anh hùng Trần Hưng Đạo, hẳn là phải có kiến thức hiểu biết và phong độ uy tín như thế nào mới có thể điều binh khiển tướng chống giặc ngoại xâm ba lần thành công.

Trong bất kỳ một tổ chức nào, vai trò của người thủ lĩnh đều rất quan trọng, kinh nghiệm kiến thức của họ sẽ quyết định con đường mà tổ chức sẽ đi. Nhưng đặc biệt trong giới luật sư, khi thước đo nghề nghiệp là uy tín thương hiệu thì người đứng đầu càng phải là người có uy tín và danh dự nhất.

Cũng chỉ đặc biệt ở nghề luật sư, sự thành công là ở khả năng thuyết phục của lời nói, như thế thì điều tối kỵ là danh bất chính vì nếu thế thì ngôn sẽ bất thuận. Không có uy tín, không được tín nhiệm thì nói ai người ta nghe?

Sự áp đặt vô lý

Thấy được bề dày lịch sử của đoàn luật sư Pari như vậy, nhìn lại giới luật sư Việt Nam mà thấy buồn.

Nghề luật sư ở Việt Nam thực sự mới hoạt động từ vài ba chục năm nay, số lượng luật sư cả nước tính đến nay chỉ khoảng 8000, con số rất nhỏ so với các hội đoàn khác, ví như hội luật gia số thành viên là 46.000.

Giới luật sư cũng chưa tạo dựng được hình ảnh đáng trân trọng trong xã hội. Nguyên do một phần vì hệ thống chính trị không coi trọng quyền tư pháp, quyền tư pháp yếu hơn rất nhiều so với quyền lập pháp và hành pháp, trong khung cảnh đó giới luật sư chịu chung số phận hẩm hiu.

Một nguyên nhân khác là sự yếu kém nội tại của giới luật sư mà chỉ người trong nghề mới hiểu, nhiều người thờ ơ vô trách nhiệm, không có bản lĩnh chính kiến trước các vấn đề của tổ chức, không có tinh thần dấn thân cho nghề nghiệp.

Thời điểm năm 2009 khi Liên đoàn luật sư Việt Nam được thành lập, chính quyền đã sắp đặt để những người hầu như chưa bao giờ hành nghề luật sư lại đứng đầu tổ chức luật sư cả nước. Những người chưa hề có uy tín nghề nghiệp lại đứng trên cả những luật sư với thâm niêm mấy chục năm hành nghề.

Đứng đầu tổ chức luật sư nguyên là một phó chánh án tòa án tối cao, một người hầu như chưa bao giờ hành nghề luật sư. Cấp phó thường trực của ông này là một vị nguyên là vụ trưởng một vụ của Bộ tư pháp, một người cũng hầu như chưa hề hành nghề luật sư.

Có thể họ tuy không hành nghề những cũng biết về nghề luật sư, nhưng biết với trải nghiệm là hoàn toàn khác nhau.

Những người chưa từng đổ một giọt mồ hôi lên các trang hồ sơ tài liệu và chưa từng khóc thầm vì những trái ngang của cơ chế, họ làm sao thấu hiểu những vấn đề của nghề luật sư?

Những người vì đã đến tuổi nghỉ hưu nên phải thôi chức ở cơ quan nhà nước, rồi lại được cơ cấu sang đứng đầu một tổ chức khác, thì lấy đâu ra nhiệt huyết cống hiến của những con người này.

Không sống bằng thu nhập nghề nghiệp, đã có nguồn thu nhập khác là lương hưu, hy vọng gì họ sẽ trăn trở thao thức để vạch đường tìm lối cho nghề luật sư phát triển?

Việc áp đặt nhân sự không chính đáng đã phạm phải vấn đề húy kỵ nhất của nền tư pháp đó là sức mạnh thuộc về công lý và chính nghĩa chứ không thuộc về cường quyền.

Xuất phát từ đâu mà chính quyền lại áp đặt lối nhân sự như vậy. Phải chăng đó là thâm ý của chính quyền, áp đặt nhân sự kém năng lực để kìm hãm giới luật sư trong trì trệ, níu giữ nền tư pháp nước nhà trong tăm tối lạc hậu?

Còn nhiều khó khăn

Đứng trước sự áp đặt ngang trái như vậy nhưng hầu hết giới luật sư đều im lặng, cũng có vài người không đồng tình nhưng cuối cùng cũng cam chịu chấp nhận.

Chính quyền đã thiếu tôn trọng giới luật sư, người luật sư cũng vô trách nhiệm với tổ chức của mình, không biết cái nào là nguyên nhân của cái nào.

Tựu chung lại, giới luật sư đã thất bại trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Khi không bảo vệ được quyền lợi của chính mình thì luật sư còn bảo vệ được cho ai?

Bao nhiêu tổ chức hội đoàn trong xã hội có lúc họ cần được bảo vệ quyền lợi, nhưng hẳn họ sẽ nghĩ là mấy người đó còn chẳng làm được gì ra hồn cho tổ chức của họ, sao bảo vệ được cho chúng ta?

Nhìn vào chính cách hành xử của giới luật sư, xã hội sẽ dành cho mức độ tín nhiệm tương xứng.

Người dân không nghĩ đến luật sư đầu tiên khi gặp vướng mắc, họ sẽ tự giải quyết lấy bằng cách nhờ vả người quen hay lo lót cán bộ chính quyền. Chỉ khi sự việc rối tung lên và không tự giải quyết nổi họ mới tìm đến luật sư.

Vì xã hội chưa tín nhiệm nên nghề luật sư ở Việt Nam không phải là một nghề đem lại thu nhập cao. Trừ một vài thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và trừ ra những luật sư đã thành công kiếm tiền từ những mảng công việc khác rồi mới chuyển sang làm luật sư, số đông còn lại đời sống còn nhiều khó khăn.

Ở các tỉnh, khi không vào được công chức nhà nước hoặc không được làm tại các công ty lớn, nhiều người mới đành hài lòng với nghề luật sư.

Khi gặp gỡ trao đổi với luật sư các tỉnh, sẽ dễ dàng nhận thấy những nét ưu tư trăn trở trên gương mặt, qua những câu chuyện sẽ thấy tâm trạng bải hoải chán chường bế tắc.

Nhưng tất cả lại chỉ trông trờ vào sự thay đổi từ nơi khác, rất hiếm người có bản lĩnh táo bạo thấy được sự thay đổi cần ở ngay nơi mình.

Làm thế nào?

Giới luật sư ở Việt Nam chưa cho thấy là một nghề nghiệp của những con người có kiến thức thuộc tầng lớp trí thức nhận được sự tôn kính của xã hội.

Lâu nay giới luật sư được vinh danh một phần là nhờ hào quang quá khứ của giới luật sư thủa xưa vốn được nhân dân gọi là “thầy cãi”. Một phần là vay mượn giá trị của người luật sư phương Tây qua những bộ phim hình sự truyền hình.

Giới luật sư Việt Nam cần phải làm rất nhiều việc để xứng với kỳ vọng của xã hội về nghề luật sư.

Lâu nay các luật sư mới chỉ có thói quen vận dụng các quy định pháp luật hiện tại, không mấy ai đặt câu hỏi tại sao luật lại quy định như thế này mà không phải thế khác, để tạo cơ chế thông thoáng cho người dân và doanh nghiệp, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân.

Đứng trước quy định bất cập của pháp luật, khi tháo gỡ cho khách hàng nhiều luật sư chỉ biết luồn lọt sao cho được việc mà không mấy ai quan tâm đấu tranh để loại bỏ quy định bất cập ấy.

Ngay với những vấn đề liên quan đến quyền lợi của giới mình, như có những luật chưa tạo điều kiện để giới luật sư hành nghề, nhưng giới luật sư cũng không có tiếng nói phản ánh.

Gần gũi hơn nữa là công tác nhân sự của tổ chức luật sư, nhiều luật sư cũng chẳng thèm quan tâm, nhiều luật sư cho rằng họ vẫn hành nghề tốt mà chẳng cần biết đến ai là người đứng đầu tổ chức của họ.

Đó thực sự là lối suy nghĩ làm việc của đông đảo luật sư Việt Nam, không quan tâm đến tổ chức.

Và đó là cách làm nghề không bền vững và không có tương lai.

Luật sư Ngô Ngọc Trai, Giám đốc Công ty luật TNHH Công Chính

Tưởng niệm Giáo sư Vũ Văn Mẫu

Lê Công Định

Theo FB Ls Lê Công Định

 

Hôm nay vừa tròn 100 năm ngày sinh của Giáo sư Vũ Văn Mẫu (25/7/1914 – 25/7/2014). Là một học giả lỗi lạc về luật pháp và chính trị gia nổi tiếng trước năm 1975 tại miền Nam, ông từng là Thượng nghị sĩ, Ngoại trưởng và Thủ tướng của chính thể Việt Nam Cộng Hòa, ngoài ra ông còn là Khoa trưởng và Giáo sư thực thụ của Đại học Luật khoa Sài Gòn. Ông qua đời năm 1998 tại Paris.

Giáo sư Vũ Văn Mẫu có kiến thức uyên bác về cựu và tân học, biết nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Latin và Hán. Ông trước tác nhiều tác phẩm luật học rất giá trị bằng tiếng Việt, mà cho đến nay chưa ai có thể so sánh. Tác phẩm của ông được các giáo sư luật đối chiếu danh tiếng thế giới như René David và John E.C Brierley trích dẫn trong các tác phẩm của mình.

Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông thông qua các tác phẩm ông để lại, từ sách, giảng văn, tạp chí, đến cả luận án tiến sĩ luật mà ông đệ trình tại Pháp. Năm 1989 tôi tốt nghiệp trường luật XHCN, đầy tự tin vì là sinh viên giỏi và chịu khó học hỏi, tích lũy kiến thức. Trong công việc đầu tiên của mình sau khi ra trường, trợ lý Trưởng Phòng Công chứng Nhà nước, tôi được tiếp xúc kho tư liệu và thư viện của Phòng Chưởng khế Sài Gòn trước năm 1975. Thú thật, khi đọc các văn kiện pháp lý và chứng thư công chứng được soạn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp trong kho tàng ấy, tôi đã hiểu từ mơ hồ đến … không hiểu gì cả.

Nhanh chóng nhận ra rằng mình đã hoàn toàn không được trang bị những quan niệm nền tảng của một nền học thuật pháp lý đúng nghĩa, tôi lập tức tìm đến các hiệu sách cũ còn bày bán các sách, giảng văn và tạp chí luật được ấn hành tại Sài Gòn trước đây. Một trong những tác giả mà tôi đọc nhiều nhất chính là Giáo sư Vũ Văn Mẫu, hầu như mọi trước tác của ông bằng tiếng Việt và tiếng Pháp tôi đều đọc đi đọc lại nhiều lần, thậm chí học được cả cách hành văn chính xác, ngắn gọn song trau chuốt từ ông.

Năm 1993 lần đầu tiên được diện kiến Giáo sư Vũ Văn Mẫu tại tư gia trên đường Sương Nguyệt Ánh, nhờ tháp tùng thầy của tôi là Tiến sĩ luật Đào Quang Huy (Đại học Luật khoa Sài Gòn), tôi thật ấn tượng về nếp sống bình dị và phong thái tự tại của một bậc đại trí ẩn dật như ông. Ông kể lại việc đệ trình luận án tiến sĩ luật vào năm 1948 và sau đó thi bằng Agrégation (Thạc sĩ luật) khó khăn như thế nào để làm giáo sư luật tại Pháp. Ông cũng thuật lại nhiều sự kiện hậu trường lúc đảm nhiệm chức vụ Ngoại trưởng dưới thời cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và giữ cương vị Thủ tướng trong chính quyền của cố Tổng thống Dương Văn Minh.

Một người thầy đáng kính khác của tôi là Tiến sĩ luật Võ Phúc Tùng (Đại học Luật khoa Sài Gòn), trong những câu chuyện sau giờ dạy riêng cho tôi về nền văn chương và luật học của Pháp, đã kể một mẩu chuyện mà ông ấn tượng về Giáo sư Vũ Văn Mẫu. Vì muốn viết một luận án tiến sĩ luật với đề tài “Les droits de la personne humaine sur son corps” (tạm dịch, quyền của con người trên thân thể của mình) (cần lưu ý, cho đến năm 1975, tại Đại học Luật khoa Sài Gòn hầu hết các luận án tiến sĩ ngành tư pháp phải viết và đệ trình bằng tiếng Pháp dù thầy và trò đều là người Việt), nên thầy tôi đến xin ý kiến của Giáo sư Vũ Văn Mẫu, lúc ấy vừa là giáo sư, vừa là Thượng nghị sĩ. Vừa nghe xong, vị giáo sư nói ngay rằng: “Tại sao anh lại chọn một công trình nghiên cứu khó khăn như thế? Lĩnh vực này không có nhiều tài liệu khảo cứu. Sau luận án tiến sĩ của Giáo sư Pháp André Decocq vào năm 1960 nhiều người muốn đào sâu thêm, nhưng hầu như không ai thành công với đề tài này. Anh phải thận trọng nếu không giới học giả Pháp sẽ chỉ trích anh.” Sau đó, vị giáo sư hướng dẫn thầy tôi tìm các tài liệu cần quan tâm.

Thầy tôi nói, sau khi nghe Giáo sư Vũ Văn Mẫu góp ý, ông choáng váng và tự hỏi rằng với bao nhiêu công việc quản lý và giảng dạy đại học, cùng hoạt động chính trị hàng ngày bận rộn như thế, vị giáo sư ấy tìm đâu ra thì giờ để có thể đọc rất nhiều về các lĩnh vực khác nhau của luật pháp, bởi trước đấy thầy tôi từng xin ý kiến của một vài giáo sư khác về đề tài luận án của mình, nhưng chưa thấy ai hiểu thấu đáo lĩnh vực quá chuyên sâu này!

Đối với các vị thầy của tôi, Tiến sĩ Võ Phúc Tùng và Tiến sĩ Đào Quang Huy, cũng như đối với nhiều vị học giả và luật sư khả kính khác thời Việt Nam Cộng Hòa, Giáo sư Vũ Văn Mẫu là một ngọn đuốc soi đường của nhiều thế hệ. Mặc dù chỉ là hậu bối và không trực tiếp lắng nghe ông giảng dạy, song gia tài học thuật ông để lại cũng đủ để tôi trang bị một hệ thống kiến thức nền tảng về luật học và nhận ra đâu là khoa học thật sự.

Nhân tiện, xin lạc đề một chút, trong thời gian bị giam và điều tra vào năm 2009, một vài vị tướng an ninh đến gặp tôi và xưng là tiến sĩ luật. Lúc trò chuyện với họ, bỗng nhớ về Giáo sư Vũ Văn Mẫu và các thầy của tôi, bất giác tôi mỉm cười thích thú. Cũng là một chữ “tiến sĩ” đó, mà sao khác xa nhau thế? Giá mà họ đừng khệ nệ với bằng cấp “tiến sĩ” như thi sĩ Tú Xương mô tả, chắc tôi đã kính trọng hơn nhiều lắm!

Trở lại câu chuyện, hôm nay nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Giáo sư Vũ Văn Mẫu, tưởng nhớ đến ông, tôi vẫn không thôi ao ước một ngày trên đất nước này, người Việt có được một nền luật pháp và học thuật pháp lý đạt đến tầm vóc và đỉnh cao của thế giới văn minh Tây phương, mà một thời tại mảnh đất miền Nam tưởng chừng chúng ta đã gần đạt đến.


(Hình đính kèm là tập luận án của Giáo sư Vũ Văn Mẫu đệ trình tại Đại học Luật khoa Paris ngày 1/7/1948)

(Có thể tham khảo thêm bài viết của Luật sư Lê Quang Vy tại https://www.facebook.com/quangvy.le.5 )

Posted in Luật Pháp | 1 Comment »

►Chứng cứ lịch sử và khía cạnh pháp luật về chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông

Posted by hoangtran204 trên 25/07/2014

Chứng cứ lịch sử và khía cạnh pháp luật về chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông

 18-7-2014

 GS Tạ Văn Tài, Tiến sĩ, Luật sư, cộng tác viên và cựu giảng viên Đại học Luật Harvard, Hoa Kỳ

CHỨNG CỨ LỊCH SỬ VÀ KHÍA CẠNH LUẬT PHÁP VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA VÀ QUYỀN CHỦ QUYỀN Ở VÙNG BIỂN CHUNG QUANH. TRIỂN VỌNG GIẢI QUYẾT HÒA BÌNH CÁC TRANH CHẤP ĐÃ VÀ CÓ THỂ XẢY RA VỚI CÁC QUỐC GIA KHÁC BẰNG THƯƠNG NGHỊ, HÒA GIẢI HAY TÀI PHÁN

Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam tại phần lớn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (không phải là trên tất cả các đá, bãi ngầm – phải nói thế mới đúng về mặt sự kiện thực tại và về mặt pháp luật và mới tôn trọng các quốc gia khác trong vùng) và các quyền chủ quyền (sovereign rights, về tài nguyên) đi liền với các vùng biển chung quanh chúng, mà luật dành cho Việt Nam, thì có căn bản chắc chắn trong các chứng cớ sự kiện lịch sử và trong quốc tế công pháp truyền thống và luật quốc tế mới của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea,UNCLOS).

Ở đây, chúng tôi chỉ có thể trình bày những điểm chính trong một bài viết ngắn, vì trình bày chi tiết sẽ cần một bài dài hơn. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng đề ra các căn bản vững chắc cho việc xác lập chủ quyền Việt Nam và do đó sẽ tỏ rõ thiện chí của lập trường Việt Nam khi nói đến các đường lối thương nghị, hòa giải và tài phán về chủ quyền quốc gia và khai thác chung quốc tế.

1. Căn bản về sự kiện lịch sử và pháp lý của chủ quyền Việt Nam trên các quần đảo và của các quyền chủ quyền trong các vùng biển bao quanh chúng

1.1. Sự xác lập chủ quyền lãnh thổ trên từng mẩu đất, đá trong các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Sự xác lập này phải dựa vào quy tắc thủ đắc chủ quyền lãnh thổ của luật quốc tế truyền thống hay thông lệ của 4 thế kỷ qua: một chính quyền của một quốc gia muốn xác lập chủ quyền trên một vùng đất đai thì phải tuyên bố ý định đó, sau khi khám phá hay chiếm hữu đất đai đó, và liên tục quản lý trong hòa bình, và nếu bị một chính quyền khác dùng võ lực chiếm mất, thì phải phản đối để không cho quyền lực mới đó thủ đắc chủ quyền bằng thời hạn tiêu diệt, nghĩa là có một thời gian mà chủ thể quyền lực mới thi hành chủ quyền liên tục mà không ai phản đối.

Mỗi một quốc gia yêu sách chủ quyền đối với một mẩu đất trong hai quần đảo nói ở đây (xin lưu ý chúng tôi dùng chữ “mẩu đất” vì hầu hết, nếu không phải tất cả, các mẩu đất chỉ là đá (reef, rock), chứ không phải là đảo (island), theo định nghĩa của UNCLOS), thì phải trưng ra chứng cứ đã khám phá và chiếm ngụ mẩu đất đó hợp pháp, trong hòa bình. (Vì thế mà Hoa Kỳ luôn nói, rất hữu lý, là không thiên về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, và chỉ khuyến cáo tranh chấp phải giải quyết trong hòa bình, theo luật quốc tế).

Ở Trường Sa, các mẩu đất đã được khám phá, chiếm ngụ và quản lý trong hòa bình bởi các quốc gia Đông Nam Á, và giữa họ không có tranh chấp lớn gì, và thực ra chỉ có tranh chấp khi một thế lực bên ngoài là Trung Quốc, chiếm đoạt bằng võ lực đá Gạc Ma từ tay Việt Nam vào năm 1988, giết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam, và gần đây lấn chiếm đá ngầm Scarborough của Philippines, đuổi dân chài và tàu chiến của Philippines ra xa. Nhưng chiếu luật quốc tế, các vụ xâm chiếm bằng võ lực này không biện minh được cho chủ quyền của Trung Quốc, vì UNCLOS chỉ dành quyền xây đảo nhân tạo trên đá ngầm cho các nước cận duyên, và nhất là cả Việt Nam và Philippines liên tục phản đối để tránh cho sự thủ đắc bằng thời hiệu khỏi xảy ra.

Riêng trường hợp Việt Nam, thì đã có các bằng chứng lịch sử ghi rõ chính quyền Việt Nam thời xưa đã ra lệnh các hải đội quốc gia làm các cuộc hải trình hàng năm của nhà nước ra Hoàng Sa trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến 9 Tây lịch). Hải trình này thực hiện bởi Đội Hoàng Sa (lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Lan, 1635 – 1648). Và cũng đi ra Trường Sa, Côn Sơn và Hà Tiên – hải trình này thực hiện bởi Đội Bắc Hải, lập năm 1776. Đó là những chứng tích lịch sử được ghi nhận trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1686) của Đỗ Bá hay trong Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quí Đôn. Ngoài ra, còn có cả chứng cứ trong các tài liệu Trung Quốc, như Hải ngoại kỷ sự (1696) của Thích Đại Sán. Đến thế kỷ XIX, tài liệu lịch sử thời Nguyễn cho thấy các cuộc hải trình do nhà nước tổ chức vẫn tiếp tục từ năm 1803 đến khi người Pháp đô hộ Việt Nam (từ năm 1884), với những chỉ dụ chi tiết cho các đơn vị hải quân và các viên chức hành chánh địa phương. Thời thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp nói tới ít ra là 6 đá hay mỏm đất trong vùng Trường Sa. Từ 1945, Việt Nam là quốc gia chiếm nhiều đá nhất với 29 đảo, đá (hay ít hơn, nếu trừ đi số đá bị Trung Quốc chiếm năm 1988 và các năm sau). So sánh với nước khác thì Trung Quốc mới chỉ bắt đầu để ý đến Trường Sa vào năm 1947 qua việc ông Bai Meichu, một nhân viên cấp thấp, vẽ bản đồ “đường 9 đoạn” thâu tóm 80% Biển Đông, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Đối với Trường Sa, Trung Quốc hành động trên thực tại lần đầu tiên là khi Trung Hoa Dân quốc (THDQ) chiếm đảo Itu-Aba (đảo Ba Bình) năm 1956 mà không cần dùng võ lực, và lần thứ hai là khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc) tấn công lực lượng hải quân Việt Nam năm 1988 tại đảo Gạc Ma. Trong khi Trung Quốc dùng võ lực lấn chiếm một số đá ở Trường Sa, thì Việt Nam tôn trọng luật quốc tế và quyền lợi các nước Đông Nam Á, vì Luật Biển Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 1.1.2013, ghi nhận là danh sách các đảo, đá thuộc Việt Nam sẽ công bố sau – chắc là muốn định mức độ chủ quyền phải chăng, sau khi bàn với các nước Đông Nam Á khác.

Trong vùng quần đảo Hoàng Sa, tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên các đảo/đá chỉ xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trong biến cố làm cho tranh chấp sôi nổi mạnh mẽ là việc Trung Quốc, vào tháng 5.2014, đặt giàn khoan dầu khí HD-981 ở vùng biển giữa Hoàng Sa và miền Trung Việt Nam, ngay cạnh hai lô thăm dò dầu khí 142 và 143 của Việt Nam, thì Trung Quốc tuyên bố một câu là vị trí đặt giàn khoan “là hoàn toàn trong vùng biển của Hoàng Sa thuộc Trung Quốc”, hàm ý là ở trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, tính từ Hoàng Sa, nơi họ đã chiếm bằng quân sự, gần đây nhất là cuộc hải chiến năm 1974 với Việt Nam Cộng hòa. Vậy ta phải bàn về điểm pháp lý là quốc gia nào có chủ quyền chính đáng trên Hoàng Sa, vì việc tranh chấp chủ quyền nơi đây dã kéo ra một thời gian dài, cuộc khủng hoảng gây ra do giàn khoan HD-981 chỉ là biến cố gần đây nhất.

Những sự kiện lịch sử về việc Việt Nam khám phá và chiếm cứ Hoàng Sa (cũng như một số đá trong Trường Sa, như nói trên) thì có thể truy tầm trong các sử liệu Việt Nam đã có nhiều thế kỷ, thí dụ Phủ biên tạp lục nói ở trên, trong khi đó thì sử liệu Trung Quốc không đả động gì tới Hoàng Sa, Trường Sa, và nói đảo Hải Nam là biên giới cực nam của nước Tàu; trong các sử liệu Tàu đó, phải kể bản đồ chi tiết, năm 1717, thời vua Khang Hi nhà Thanh, do các nhà truyền giáo Dòng Tên nước Pháp soạn, mà một bản sao của J.B. Bourguignon mới được Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Sử liệu Việt Nam thời các vua chúa và thời Pháp thuộc cho thấy nhiều lần nhà nước tuyên bố chủ quyền và xác lập quản lý cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa. Nhật ký của các nhà truyền gíao và du ký của các du khách Tây phuơng cũng nhắc lại như vậy.

Có hai nhóm đảo/đá trong Hoàng Sa. Nhóm phía tây, có tên là Crescent (nhóm Nguyệt Thiềm hay nhóm Lưỡi Liềm), trong đó có Hoàng Sa (Pattle), theo luật quốc tế phải coi là thuộc Việt Nam dù hiện do Trung Quốc chiếm, vì Trung Quốc đoạt bằng võ lực năm 1974 nơi tay Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong sự chống cự của hải quân VNCH thì cũng không tạo ra chủ quyền hợp pháp của họ, và cũng không tước mất đi quyền thừa kế quốc gia về mặt chủ quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam), mà chính quyền này liên tục phản đối sự chiếm cứ của người Tàu từ bao năm nay.

Về nhóm các hòn đảo, đá phía đông của Hoàng Sa, gọi là nhóm Amphitrite, trong đó có Phú Lâm (tiếng Anh gọi là Woody, tiếng Pháp gọi là Boisée), thì do người Pháp lơ là, nên vào năm 1909, Tổng đốc Quảng Đông tự cho mình quyền cho người Nhật khai thác phosphate ở đó, và do đó có người cho là sự xác lập chủ quyền Việt Nam không vững lắm. Nhưng lập trường giải thích ngược lại cũng có lý: nhiều sử liệu cho thấy công ty người Nhật Mitsui Bussan Kaisha tôn vinh thẩm quyền nhà cai trị Pháp, người Pháp vào năm 1920 gửi một phái đoàn khoa học tới Amphitrite, kể cả ở Phú Lâm, rồi vào năm 1938 lập đài khí tượng ở đây, vào năm 1946 phản đối quân đội THDQ chiếm đóng, và sau cùng năm 1950 trao quyền cho chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại khi quân đội Trung Hoa rút lui. Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về hậu chiến, Liên Xô đưa ra đề nghị để Trung Quốc cai quản hai quần đảo, nhưng Hội nghị không ủng hộ, nhưng rồi sau đó Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính phủ Quốc gia Việt Nam ra tuyên bố xác nhận chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa thì không nước nào phản đối. Sau khi Ngô Đình Diệm trở thành nguyên thủ quốc gia tại VNCH (Miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Geneva 1954), thì ngoại trưởng của ông xác lập chủ quyền Việt Nam lần nữa, khi Trung Quốc chiếm Phú Lâm bằng võ lực năm 1956, do đó tránh hậu quả thời tiêu chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa.

Bây giờ ta cần giải quyết một sự kiện: cái công thư (hay công hàm) ngoại giao ngày 14.9.1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH ở Miền Bắc Việt Nam) gửi Tổng lý (Thủ tướng) Chu Ân Lai nhân dịp Trung Quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý. Sau nhiều lần viện dẫn công thư Phạm Văn Đồng, coi đó là lời nhượng lãnh thổ Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam, thì vào tháng 6.2014, Trung Quốc lại dùng nó nhân dịp đặt giàn khoan HD-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Do đó, ta phải bàn luận cứ pháp lý trong chi tiết. Nội dung văn thư đại khái như sau: Sau khi Chu Ân Lai tuyên bố lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý tính từ lãnh thổ Trung Quốc, gồm lục địa và các đảo ở đại dương, như Đài Loan và các đảo quanh đó, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa và các đảo khác, thì ông Phạm Văn Đồng viết cho ông Chu Ân Lai như sau: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý (Chu Ân Lai) rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.

Công thư không nói gì đến vấn đề chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Trước hết, Hiệp định Geneva năm 1954 chia đôi Việt Nam đã trao quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, ở phía nam vĩ tuyến 17 (lằn ranh chia cắt) cho VNCH ở phía nam vĩ tuyến đó. Do đó, nhiệm vụ xác lập và hành xử chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc thẩm quyền VNCH. Chính quyền này, và hải quân của họ, đã mạnh mẽ xác định chủ quyền trong và sau trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa hải quân VNCH – lúc đó đang chiếm ngụ và quản lý các quần đảo – và hải quân Trung Quốc xông tới tấn công. Thủ tướng Phạm Văn Đồng của VNDCCH không có thẩm quyền, hay ý định, ra một tuyên bố chủ quyền về các quần đảo lúc đó đang thuộc VNCH. Ông chỉ tuyên bố công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc mà Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố trước đó.

Sự hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại (question of fact) theo luật quốc tế. Cho nên dù rằng nguyện vọng trong khẩu hiệu “Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một” biểu lộ một lý tưởng của nhiều người Việt, kể cả Hồ Chí Minh, thì từ năm 1954 đến năm 1975, sự hiện hữu của hai nước Việt Nam, tức VNDCCH và VNCH, là đúng với luật quốc tế, và theo đó VNCH là quốc gia hành xử chủ quyền tại các quần đảo trong thời gian đó.

CHXHCN Việt Nam là quốc gia kế quyền lãnh việc thừa kế vai trò chủ quản các quần đảo. Việc thừa kế chủ quyền này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói tới trong một bài diễn văn tại Quốc hội ngày 25.11.2011. Ông nói rằng vào năm 1974, Trung Quốc dùng võ lực chiếm nốt Hoàng Sa “đang dưới quyền quản lý thực tại của chính phủ Sai Gòn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa lên tiếng phản đối cuộc tấn công và đề nghị Liên Hiệp Quốc can thiệp. Năm 1975..Hải quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa,….năm đảo này do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang quản lý, chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta mở rộng thêm lên 21 đảo”.

Chiếu điều khoản quy định về sự hiện hữu của một. quốc gia trong Công ước Montevideo năm 1933 đúc kết luật pháp quốc tế truyền thống hay thông lệ đã có nhiều thế kỷ, thì VNCH là một chủ thể hội đủ 4 điều kiện pháp lý của một quốc gia: (a) một dân số ổn định, (b) một lãnh thổ rõ ràng, (c) một chính quyền, và (d) khả năng lập bang giao với các quốc gia khác. Khi các quốc gia nhìn nhận một quốc gia hội đủ 4 điệu kiện pháp lý này và lập bang giao với nó, thì sự nhìn nhận này là một quyết định chính trị thêm vào 4 tiêu chuẩn pháp lý. Do đó, dù một quốc gia không ưa và không nhìn nhận một quốc gia khác, nó cũng không thể triệt tiêu tư cách quốc gia của nước đó. Thí dụ Cuba bị Mỹ ghét và không nhìn nhận, thì Mỹ cũng không thể xóa bỏ tư cách quốc gia của Cuba. Trong thập niên 1920, Mỹ không nhìn nhận Liên Xô do người Bolsheviks cai trị, nhưng các tòa án Mỹ cũng phải công nhận quốc gia đó và do đó công nhận quốc gia đó có đặc quyền miễn trừ ngoại giao, không thể bị kiện để bị đòi bồi thường về chuyện quốc hữu hóa các tài khoản ký thác trong các ngân hàng ở Liên Xô. Thế mà VNCH đã được mấy chục nước nhìn nhận. Ngay Liên Xô cũng có lúc đề nghị thu nhận hai nước Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Việc nhận vào Liên Hiệp Quốc chỉ là một vấn đề chính trị và không phải là một tiêu chuẩn pháp lý quyết định sự ra đời của một quốc gia. Hiệp định Geneva quy định là Việt Nam tạm thời chia làm hai miền cho đến khi tổng tuyển cử thống nhất. Sự quy định đó cũng không phải là tiêu chuẩn để nói rằng chỉ có một Việt Nam sau đó, và VNCH “không có dưới ánh mặt trời”. Nói như vậy là không hiểu luật quốc tế trong nhiều thế kỷ đã quy định các tiêu chuẩn của sự hiện hữu của một quốc gia, là lẫn lộn các tiêu chuẩn của luật quốc tế với sự sắp xếp chính trị tạm thời do một số cường quốc đưa ra trong Hiệp định Geneva mà chỉ có một số quốc gia tham gia ký, là quên cả cái thực tại chính trị là vài chục quốc gia đã nhìn nhận VNCH, mà một số nhỏ các quốc gia ký Hiệp định không thể truất quyền của vài chục quốc gia đó.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói, và có thể nói trong quá khứ, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mặc nhiên ám chỉ (mơ hồ trong trường hợp này là một nghệ thuật ngoại giao và chính trị) là có hai nước Việt Nam thời gian 1954 trở đi, và ông chỉ nói tới tuyên nhận 12 hải lý lãnh hải của ông Chu Ân Lai mà không nói đến các vùng đất mà ông Chu liệt kê. Vì rằng làm sao mà ông Phạm Văn Đồng có quyền ban bố cho Trung Quốc chủ quyền đối với các vùng đất, đá cai quản bởi Đài Loan và các nước Đông Nam Á, kể cả VNCH? Nói có hai nước Việt Nam trong thời gian 20 năm đó cũng không làm giảm thành tích thống nhất đất nước sau này, sau năm 1975, vì trong lịch sử thế giới, nhiều quốc gia bị chia cắt rồi lại thống nhất, hay ngược lại. Tan hợp, hợp tan là lẽ thường trên trái đất.

Điểm thứ hai là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ là một tuyên bố đơn phương không có giá trị nhượng đất, chiếu theo luật quốc tế. Cái lý thuyết Estoppel trong luật quốc nội một số nước, theo đó “điều nói ra thì không thể rút lại”,không thể áp dụng dễ dàng trong bang giao quốc tế, vì có điều kiện áp dụng khó hơn, như vụ giữa Đức với Đan Mạch và Hà Lan về tranh chấp thềm lục địa đã xử. Ngoài ra, Tòa án Công lý Quốc tế, trong vụ “Nuclear Tests Case, Australia & New Zealand versus France” năm 1974 (I.C.J.253), xét về ý nghĩa lời tuyên bố đơn phương (unilateral declaration), đã xử rằng khi xét ý nghĩa lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải giải thích chặt chẽ “ý định” của ngưòi tuyên bố: “Khi các quốc gia đưa ra tuyên bố có thể hạn chế bớt tự do hành động của mình, thì cần giải thích chặt chẽ… Chỉ cần xét văn từ trong lời tuyên bố có tỏ rõ một ý định rõ ràng hay không… Tòa án phải có quan điểm riêng về ý định của tác giả về ý nghĩa và phạm vi của lời tuyên bố đơn phương… Và không có thể theo quan điểm của một quốc gia khác không phải là một tham dự viên của lời tuyên bố đó”. Theo tiêu chuẩn của quy tắc luật trong bản án đó, ý định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong công thư năm 1958 phải được thẩm định theo văn từ hiển hiện trong văn bản (nói theo danh từ các luật sư hay dùng, là “within the four corners of the page”–trong bốn góc của trang giấy), thì công thư trên chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến các lãnh thổ thuộc quyền các nước khác. Ngoài ra, công thư cũng nên được chiếu rọi thêm ánh sáng bằng cách đặt công thư đó trong khuôn khổ Hiến pháp 1946 của nước VNDCCH. Theo đó, vai trò Thủ tướng là một nhân viên của nội các, dưới quyền Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước (điều 44); và quyết định quan trọng như nhượng chủ quyền lãnh thổ, thì Chủ tịch nước phải ký một hiệp ước (điều 49, khoản a và h), rồi lại phải có Quốc hội, cơ quan quyền lực tối cao, phê chuẩn (điều 22 và 23). Theo học lý “ultra vires” (vượt quyền), ông Phạm Văn Đồng không thể hành xử quyền qua mặt Chủ tịch nước và Quốc hội được. Nghĩa là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng chỉ là lời tuyên bố ủng hộ ngoại giao hải phận 12 hải lý mà Trung Quốc nóng lòng tuyên bố, vì lúc đó mối đe dọa của Hoa Kỳ đang tiến sát tới lục địa Trung Quốc, với sự hiện diện của quân đội Đài Loan có Hoa Kỳ hỗ trợ với tàu chiến và pháo hạm tại 2 đảo Kim Môn và Mã Tổ, chỉ cách Trung Quốc đại lục vài cây số, và với Hạm đội 7 mạnh mẽ gấp bội tại eo biển Đài Loan.

Tóm lại một tòa án quốc tế không cần để ý đến cách giải thích công thư của ông Phạm Văn Đồng năm 1958 một cách chủ quan, như Trung Quốc đã làm, để thủ lợi cho mình.

Còn vài luận cứ khác của Trung Quốc cũng nên bàn để bác bỏ:

Trung Quốc viện dẫn hai bài báo trong Nhân Dân nhật báo, số ngày 6.8.1958 đăng bản tuyên bố của Chu Ân Lai mà có cả đoạn ghi hai chữ Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa) và số báo ra ngày 9.5.1965 phản đối Mỹ vi phạm hải phận Trung Quốc tại Tây Sa và Nam Sa. Trung Quốc cũng nhắc lại lời thứ trưởng ngọai giao VNDCCH Ung Văn Khiêm về sự kiện này, rồi nói VNDCCH đã im lặng nhiều năm, không phản đối Trung Quốc khi Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm thuộc nhóm Amphitrite ở phía đông quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956, và khi Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Cresent phía tây vào năm 1974. Sau hết, Việt Nam đã in bản đồ có ghi tên Tây Sa (Trung Quốc), Nam Sa (Trung Quốc) cùng với cuốn sách giáo khoa lớp 9, có một dòng như sau: “Chuỗi đảo từ Nam Sa và Tây Sa, tới Hải Nam, Đài Loan, Bành Hồ và Châu Sơn, có hình như cái cung và tạo thành bức trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc”.

Việt Nam có thể phản biện là ngay công thư Phạm Văn Đồng cũng không tạo ra văn kiện nhượng đất, thì có ăn thua gì mấy bài báo của phóng viên hay lời nói của ông Ung Văn Khiêm, chỉ nhắc lại nguyên văn những lời của Trung Quốc để “nịnh” Trung Quốc ở thời điểm Việt Nam tùy thuộc viện trợ Trung Quốc. Những lời này không có giá trị nhượng đất, vì theo luật, văn thư nhượng đất phải xuất phát từ các cơ quan có thẩm quyền. Về sự im lặng của VNDCCH khi mất các hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa trước 1975, thì lý do là vào thời gian đó, nhiệm vụ phản đối là ở trong tay VNCH, đang có chủ quyền và đang quản lý các quần đảo. Và VNCH đã phản đối mạnh mẽ, bằng lời và bằng trận hải chiến anh dũng năm 1974. Sau đó, khi sắp thống nhất đất nước và sau khi thống nhất, hải quân của VNDCCH nhanh chóng chiếm Trường Sa, và sau đó, từ 1976, chính phủ nước Việt Nam thống nhất liên tục lên tiếng phản đối Trung Quốc để bảo lưu chủ quyền trên các đảo, đá, đã bị Trung Quốc chiếm. Việt Nam in bản đồ ghi chú như đã nói là chiều theo cách tuyên truyền của Trung Quốc (mà Trung Quốc có cử cố vấn làm việc trong cục bản đồ của Việt Nam), mà không có giá trị của lời minh thị nhượng đất của một cơ quan có thẩm quyền như Quốc trưởng trong một văn bản, và cũng vô giá trị về xác lập chủ quyền như việc Trung Quốc in hình “đường 9 đoạn” vào hộ chiếu do Trung Quốc cấp cho công dân của họ, thì cũng chẳng tạo ra chủ quyền của Trung Quốc đòi chiếm trên 80% Biển Đông. Câu văn trong sách giáo khoa lớp 9 chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền, một hoa ngữ, để ủng hộ Trung Quốc vào lúc mà họ đang lo lời tuyên bố trước đó của Tổng thống Mỹ Johnson ấn định vùng đó là vùng chiến tranh, chứ không phải là văn kiện nhượng đất. Mà làm sao Việt Nam có thể nhượng Đài Loan hay các hòn đảo của các nước Đông Nam Á cho Trung Quốc chỉ bằng việc in một câu trong sách giáo khoa?

Sau khi giải quyết khúc mắc chính là công thư Phạm Văn Đồng năm 1958, thì nếu nhìn toàn cục diện thời gian hơn 20 năm, 1954 – 1975, trong đó có hai nước Việt Nam, ai cũng thấy vai trò xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và quản lý chúng, là ở trong tay VNCH, do Hiệp định Geneva 1954 trao phó. Hiệp định này có một số cường quốc ký, cả Trung Quốc và VNDCCH cũng ký (do ông Phạm Văn Đồng đại diện). Hành xử chủ quyền do quốc tế giao, Tổng thống Ngô Đình Diệm của VNCH ký hai sắc lệnh sát nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa và Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam, gửi hải quân đến các quần đảo này, và cho phép một kỹ nghệ gia khai thác phosphate. Việc xác lập chủ quyền của VNCH đối với quần đảo Hoàng Sa được bày tỏ rõ rệt, mạnh mẽ nhất với cuộc hải chiến ngày 19.1.1974 của hải quân VNCH chống lại hải quân Trung Quốc tới xâm chiếm Hoàng Sa, sau khi Trung Quốc thông báo chủ quyền (với hòn đảo này) vào ngày 12.1.1974 thì VNCH đã phản đối vào ngày 16.1.1974 với lời yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau trận hải chiến, ngày 20.1.1974, VNCH lại yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc họp khẩn để can thiệp. Lần chót VNCH nêu vấn đề chủ quyền và phản đối Trung Quốc là tại Hội nghị Luật Biển của Liên Hiệp Quốc vào ngày 28.6.1974 ở Caracas (Venezuela).

Sau khi thống nhất đất nước, CHXHCN Việt Nam, kế quyền về các quần đảo, đã nhiều lần phản đối sự xâm chiếm của Trung Quốc. Ngày 24.9.1975, khi gặp phái đòan Việt Nam sang thăm, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nhìn nhận có tranh chấp về các quần đảo giữa Trung Quốc và Việt Nam, và gợi ý đàm phán để giải quyết. Liên tục nhiều năm, Việt Nam đã phản đối và đưa ra các chứng cứ lịch sử về chủ quyền, trong lời tuyên bố hay các bạch thư (sách trắng) vào các năm: 1978, 1979, 1980, 1981, 1982, 1984, 1988 (phản đối Trung Quốc tuyên bố sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào đảo Hải Nam), 1990, 1991, 1994 (phản đối Trung Quốc ký hợp đồng với hãng Crestone cho phép thăm dò trong thềm lục địa và vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam), 2012 (phản đối Trung Quốc đưa ra chương trình quản lý các đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa). Việt Nam cũng phải đổ máu bảo vệ chủ quyền ở Gạc Ma năm 1988 khi đem đồ tiếp tế đến cho các chiến sĩ bảo vệ hòn đá đó, mà Trung Quốc tàn sát 64 chiến sĩ hải quân khi họ đang lội nước ngang lưng. Trong vụ giàn khoan HD-981 từ tháng 5.2014 đến nay, Việt Nam đã đưa tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển tới vùng biển nơi HD-981 đang hoạt động trái phép để bảo vệ chủ quyền và yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan. Ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục đánh cá ở gần đó, mặc dùng bị các tàu Trung Quốc bao vây nhưng họ vẫn giữ một khoảng cách an toàn, hầu tránh xung đột võ trang, vừa để mưu sinh, vừa để bảo vệ chủ quyền với sự tự kiềm chế, mặc dù Trung Quốc rất hung hãn, dùng võ lực, đâm tàu Việt Nam và dùng súng nước tấn công tàu Việt Nam. Các lời phản đối và hành động bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với vùng biển Hoàng Sa trong vụ giàn khoan HD-981 càng cho thấy chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển chung quanh luôn được duy trì, không hề bị xói mòn.

1.2. Quyền lợi Việt Nam trong vùng biển, tức vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Vùng biển quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông là nơi Trung Quốc gây ra tranh chấp vì Trung Quốc vẽ ra “đường 9 đọan”, còn gọi là “đường lưỡi bò”, để mạo nhận chủ quyền trong khu vực rộng tới 80% Biển Đông. Nhưng Trung Quốc không đưa ra được căn bản luật quốc tế nào cho sự nhận vơ này, mà còn mơ hồ hay mâu thuẫn trong lúc biện giải tại các hội nghị quốc tế, khi thì nói đến “vòng cung lịch sử” (historical circumference), khi thì nói đến các “vùng biển lân cận” (adjacent waters) tính từ các đảo/đá của Hoàng Sa và Trường Sa mà họ cũng đã nhận vơ như đã nói ở trên.

Nhưng các yêu sách quá đáng và vô căn cứ này trái với UNCLOS, vì các điều 56, 57, 76, 77 qui định là các quốc gia cận duyên (quanh Biển Đông) có chủ quyềnquyền chủ quyền (sovereign rights) về tài nguyên trong vùng lãnh hải (territorial sea) 12 hải lý tính từ đường cơ sở (base line), tức lằn mức thủy triều thấp, và trong vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone, EEZ) rộng 200 hải lý, tính từ đường cơ sở, cũng như ở thềm lục địa (Continental Shelf, CS) tính từ đường cơ sở ra thềm lục địa hay 200 hải lý. Các quyền chủ quyền về tài nguyên, tài nguyên sinh vật như cá sống trong vùng nước 200 hải lý đó, cũng như tài nguyên vô sinh như dầu khí và khoáng chất dưới đáy biển, là các quyền chuyên độc hay dành riêng (exclusive rights) của các quốc gia cận duyên, mà họ được hưởng mà không cần ra tuyên bố xác lập. Các quốc gia cận duyên có quyền xây các kiến trúc nhân tạo trên các đá, dù nhô trên mặt nước biển hay ngầm, thành các đảo nhân tạo, thi hành nghiên cứu biển, qui định việc bảo vệ môi sinh, miễn là họ tôn trọng các quốc gia khác khi họ sử dụng quyền tự do lưu thông hải hành (freedom of navigation) hay đặt các ống dẫn dầu và cáp ngầm. Các quốc gia khác đó không có quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia cận duyên, nếu không có sự ưng thuận minh thị của các nước cận duyên. Thực là UNCLOS dành các quyền chuyên độc cho các nước cận duyên một cách chắc chắn như “đinh đóng cột”.

Về cái quyền của tất cả các quốc gia, cận duyên hay không cận duyên, được tự do lưu thông trên biển, tại vùng đặc quyền kinh tế hay vùng biển cả (high sea) ở ngoài xa hơn, thì nó bị vướng mắc vào yêu sách “đường 9 đoạn” vô căn cứ của Trung Quốc (tại Hội nghị phân chia biên giới biển ở Houston, Hoa Kỳ năm 2010, đại điện Trung Quốc đã mở miệng nói một câu rất xúc phạm các nước khác là “vào trong vùng ‘đường 9 đoạn’, quí vị phải tuân theo luật Trung Quốc”). Đường “đường 9 đoạn” này hoàn toàn trái với UNCLOS (điều 89 của UNCLOS nói yêu sách chủ quyền trên biển cả là vô giá trị) và trái với luật quốc tế cổ truyền, hay ngay cả luật tương đối mới là Hội nghị Luật Biển năm 1958 (chỉ công nhận vùng lãnh hải 3 hải lý thôi).

Được vẽ ra bởi một nhân viên cấp thấp từ thời Trung Hoa Dân quốc năm 1947, “đường 9 đoạn” bị lãng quên cho đến năm 2009, khi triển vọng dầu khí ngày càng cao ở Biển Đông, thì Trung Quốc mới đưa “đường 9 đoạn” này vào hồ sơ xin nới rộng thềm lục địa gửi Ủy ban của Liên Hiệp Quốc về Ấn định biên giới thềm lục địa (UN Commission on the Limit of the Continental Shelf). Lập tức, nó bị Việt Nam, Philippines và Indonesia phản đối. Những bằng chứng lịch sử Trung Quốc đưa ra để biện minh cho “đường 9 đoạn” xâm phạm vào quyền của mọi quốc gia, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, như bằng chứng về các cuộc hải trình của Đô đốc Trịnh Hòa vào thế kỷ XV, thì không thể thắng được các bằng chứng cả 4 ngàn năm sinh họat nghề cá, du lịch và thương mại hàng hải, của các dân tộc Malaysia, Indonesia (họ đến tận Madagascar, để lại ngôn ngữ và 50% gene), Philippines, Việt Nam và Đế chế Khmer – Phù Nam thời trung đại – có trình bày trong hồ sơ Philippines nộp cho Tòa án Trọng tài về Luật Biển.

Các viên chức và học gỉa Trung Quốc đã không trả lời nổi các câu chất vấn về yêu sách chủ quyền ở đại dương trong “đường 9 đoạn” tại các hội nghị quốc tế.

2. Dù có căn bản vững chắc về sự kiện và về pháp lý cho chủ quyền của mình, người Việt nên chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền đã hay sẽ xảy ra qua thủ tục thương nghị, hòa giải (trong đó có giải pháp khai thác chung) hay tài phán.

Tranh chấp ở Biển Đông trở nên gay gắt khi Trung Quốc vào ngày 2.5.2014 đã kéo giàn khoan dầu khí HD-981 vào đặt trong vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc Hoàng Sa, cách bờ biển miền Trung Việt Nam chưa tới 120 hải lý để khoan thăm dò dầu khí. Trong khi Trung Quốc nói vị trí đặt giàn khoan này nằm ở trong vùng biển của Tri Tôn, gần đảo Hải Nam của Trung Quốc thì Việt Nam nói là nó đặt trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Sau hơn 70 ngày tranh luận gay go khắp nơi và gây nhiều va chạm trên biển, và sự cô lập của Trung quốc trước phản ứng mạnh bất lợi cho Trung quốc trên trường ngoại giao quốc tế, từ Việt Nam đến các cường quốc Âu, Mý,Úc,Nhật,Ấn v.v.thì đến ngày 15.7.2014,Trung Quốc đã rút giàn khoan này, nhưng nói là vì để tránh bão và có thì giờ nghiên cứu các mẫu dầu khí thu được, nghĩa là giành quyền quay lại ở Biển Đông. Như vậy tranh chấp lại có thể tái phát và những bàn luận sau đây, tức sự phân tích toàn cục các vấn đề tranh chấp biển đảo và đề nghị các sách lược hay thủ tục giải quyết tranh chấp, vẫn là cần thiết cho tương lai. cho các học gỉa cùng các nhà làm chính sách.

Trước tiên, phải liệt kê các vấn đề tranh chấp trước khi suy ra các cơ quan, định chế và thủ tục giải quyết tranh chấp.

2.1. Việc Trung Quốc đặt giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam, kèm theo các biện pháp võ lực, dẫn tới các vi phạm chủ quyền lãnh lãnh thổ của Việt Nam về đảo/đá, do luật quốc tế truyền thống cũ quy định và các vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam về tài nguyên trong các vùng biển dưới mặt nước, và quyền tự do lưu thông của mọi quốc gia, do luật mới của UNCLOS 1982 dành cho các quốc gia, nhất là các quốc gia cận duyên quanh Biển Đông.

Bộ Ngọai giao Trung Quốc biện minh cho việc đặt giàn khoan vào vị trí đã nói bằng một câu ngắn gọn rất nham hiểm, vì họ tránh viện dẫn “đường 9 đoạn” đã bị các nước chất vấn, rằng giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của Hoàng Sa của Trung Quốc” (placed completely within the water of China’s Paracels). Như vậy là họ nói hai vế trong câu này, mà Việt Nam phải cố bác bỏ với các luận cứ có nội dung vững chắc như nói trên:

– Vế (i): Hoàng Sa thuộc chủ quyền của họ từ lâu (sau này họ đưa thêm vào hồ sơ nộp cho Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Kimon sau khi Việt Nam phản đối mạnh mẽ, có sự ủng hộ của nhiều nước, để nói là công thư 1958 của ông Phạm Văn Đồng xác nhận lại cái chủ quyền này mà họ đã có từ lâu). Việt Nam sẽ phải cãi lại về điểm chủ quyền lãnh thổ này, theo như đã nói ở trên khi bàn về chứng cứ lịch sử, công thư ông Phạm Văn Đồng và các biến cố xác lập chủ quyền, kể cả trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, và vấn đề này, phải kiện trước Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice, ICJ) ở The Hague, Hà Lan. Tuy nhiên, kiện đòi chủ quyền lãnh thổ tại ICJ, phải vượt trở ngại là làm sao cho Trung Quốc chấp nhận ra tòa với việc ký nhận điều khoản nhiệm ý (optional clause) công nhận thẩm quyền của ICJ.

– Vế (ii): vị trí giàn khoan ở trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ Hoàng Sa đang thuộc quyền Trung Quốc. Việt Nam cũng sẽ phải cãi về điểm này là vẫn liên tục phản đối sự chiếm đóng sau khi Trung Quốc dùng võ lực tấn công quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và năm 1974, rồi chiếm đóng từ đó đến nay; khẳng định rằng Trung Quốc không có quyền về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ Hoàng Sa như họ tuyên bố. Một luận cứ khác để bác cái vế (ii) này là nói rằng, cho dù giả thiết – giả thiết mà thôi – là Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa, để bàn cho hết lý lẽ, thì Việt Nam có thể xin Tòa án Trọng tài Luật Biển – đây là vụ kiện thứ 2 của Việt Nam – theo thẩm quyền bắt buộc về giải thích và áp dụng UNCLOS, phải ra một bản án tuyên nhận rằng tất cả các hòn như Tri Tôn hay ngay cả Phú Lâm tại Hoàng Sa, đều không hội đủ điều kiện để là đảo theo định nghĩa của Điều 121 của UNCLOS. Đó phải là nơi có đủ điều kiện hỗ trợ cho đời sống con người và một nền kinh tế tự túc, lúc còn trong tình trạng thiên nhiên sơ khai (như có nước ngọt, thực phẩm nuôi và trồng tại chỗ – nếu chỉ có cocacola thay nước như một học giả Malaysia nói đùa, thì không phải là đảo); không đủ điều kiện là đảo thì chỉ có thể là đá (reef, rock) theo khoản 3 của Điều 121. Và nếu là đá thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở chung quanh, mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý (theo khoản 3, Điều 121). Còn nếu là đảo thì có các vùng nước chung quanh như lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous Zone), vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giống như lục địa vậy. Trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể theo thủ tục bắt buộc (compulsory procedure) để kéo Trung Quốc ra tòa, mà yêu cầu tòa dùng thẩm quyền giải thích và áp dụng UNCLOS (Điều 286 và Điều 288), để Việt Nam trình bày được chứng cứ lịch sử của nhiều thế kỷ về hoạt động của đội Hoàng Sa trước đây hàng năm đi ra quần đảo đều phải mang nước ngọt và thực phẩm đi theo, rồi không sống quanh năm trong một nền kinh tế tự túc được, và do đó, ngay bây giờ Trung Quốc cũng không đòi quy chế đảo cho Hoàng Sa được, và cũng không đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý cho Hoàng Sa được. Và do đó, giàn khoan HD-981 đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Mở rộng chiến thuật phản biện này sang các đá ở Trường Sa, mà minh chứng tất cả các hòn ở đó đều là đá trong trạng thái thiên nhiên trước khi xây các kiến trúc nhân tạo, thì có thể giảm thiểu nhiều sự tranh giành chủ quyền của Trung Quốc trong vùng biển Trường Sa, vì dù Trung Quốc có chiếm vài đá và đá ngầm, họ cũng không thể đòi gì rộng hơn 12 hải lý lãnh hải quanh các đá đó (đá ngầm cũng không tạo ra lãnh hải, có xây trên đó cũng không tạo thành đảo, và chỉ quốc gia cận duyên mới có quyền xây trên đá ngầm – điều 60 UNCLOS), không thể đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xuất phát từ các hòn đá; và “đường 9 đoạn” càng mất cơ sở là có hòn đất nào đó để bám vào, làm cứ điểm xuất phát.

Nhưng Trung Quốc còn có thể dùng luận cứ khác, không dựa vào Hoàng Sa, mà dựa vào bờ biển Hải Nam làm đường cơ sở, từ đó tính ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ là 200 hải lý, và đo đó giàn khoan nằm trong khoảng 180 hải lý của các vùng biển đó của Trung Quốc, và dù giàn khoan cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 120 hải lý, thì kết quả sau cùng cũng là sự chồng lấn giữa hai vùng biển của hai quốc gia cận duyên đối diện nhau mà ta thấy đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Chiếu theo UNCLOS, thì bổn phận pháp lý của hai quốc gia đó là thương lượng để tìm một giải pháp công bình (equitable solution) trước khi khởi kiện đem nhau ra tòa, thí dụ giải pháp dùng “đường trung tuyến” (median line) chẳng hạn. Điều này có nghĩa là vụ Việt Nam kiện Trung Quốc thì sẽ có khó khăn hơn vụ Philippines kiện Trung Quốc (dù Philippines kiên nhẫn thương nghị với Trung Quốc suốt 17 năm, Philippines cũng không có bổn phận pháp lý phải thương nghị, vì Trung Quốc dùng võ lực chiếm đá ngầm Scarborough cách Trung Quốc hơn ngàn hải lý, ở trong thềm lục địa của Philippines, chứ không có vùng chồng lấn nào cả, rồi xây thêm kiến trúc nhân tạo, cho nên nó không tạo ra quyền nào về vùng biển đó, hay đảo nhân tạo đó). Nhưng dù nội dung thương lượng sẽ khó, nhưng Việt Nam đã nỗ lực thương lượng, 30 lần cố liên lạc ở nhiều cấp, cao và thấp, với Trung Quốc mà không được trả lời, thì Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS như đề cập dưới đây.

Điểm thứ 2 để Việt Nam kiện trước Tòa án Trọng tài Luật Biển là Trung Quốc đã vi phạm Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS là từ chối đáp lại 30 lần Việt Nam đưa lời mời thương lượng, tức là đã không tỏ ra có tinh thần hiểu biết và hợp tác (understanding and cooperation) mà lại còn dùng các biện pháp võ lực như bắn súng nước hay đâm vào tàu Việt Nam để gây thiệt hại về vật chất hay thân thể cho phía Việt Nam, thay vì có các đề nghị về các biện pháp tạm thời, theo các điều khoản trên.

Điểm thứ 3 Việt Nam có thể kiện là Trung Quốc, đó là Trung Quốc với tư cách là một quốc gia cận duyên, đã làm cản trở tự do lưu thông trên biển – vi phạm khoản 1a Điều 297 của UNCLOS – bằng cách gửi một số lớn tàu hải giám, hải cảnh, ngư chính, cả tàu quân sự và máy bay quấy rối ở vùng biển quanh vị trí họ đặt trái phép giàn khoan, không cho các tàu của các nước khác tới gần, không cho tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư Việt Nam thực thi pháp luật hay thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam hoạt động mưu sinh theo truyền thống.

Điểm thứ 4 Việt Nam có thể kiện Trung Quốc là hành động do họ gây ra đã vi phạm nhân quyền của dân chài Việt Nam, tức là họ đã dùng bạo lực đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam (vụ Trung Quốc đâm chìm tàu cá ĐNa 90152 ngày 26.5.2014 chẳng hạn), ngăn cản họ đánh cá trong các vùng ngư trường truyền thống của họ, chiếm đoạt ngư cụ và cá, bắt chuộc tầu cá. Như vậy là tước đi quyền kiếm sống của ngư dân Việt Nam. Vi phạm này, nếu xảy ra trong vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam có thể viện dẫn Hiệp định Trung – Việt về Nghề Cá ở vịnh Bắc Bộ, buộc hai bên phải giải quyết hòa bình. Nếu vi phạm xảy ra ở ngoài vùng vịnh Bắc Bộ, thì Chính phủ có thể kiện Trung Quốc hay ủy quyền cho dân chài kiện Trung Quốc, trước Tòa án Trọng tài Luật Biển theo quy định của UNCLOS, hay có thể nêu vấn đề Trung Quốc vi phạm nhân quyền hàng loạt này trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.

Trong tương lai, các điểm vi phạm của Trung Quốc nói trên vẫn có thể dùng bởi các nhà làm chính sách hay bởi các chuyên gia pháp luật để làm điểm kiện (counts) trong một hoàn cảnh khác sau vụ giàn khoan, trong đó Trung Quốc tuy tuyên bố “trỗi dậy trong hòa bình” nhưng kỳ thực vẫn hung hãn vi phạm luật quốc tế và quyền lợi quốc gia Việt Nam

2.2. Các cơ quan, định chế và thủ tục gỉai quyết tranh chấp.

Một nguyên tắc căn bản phải theo trong các tranh chấp từ khi có Liên Hiệp Quốc là bổn phận pháp lý của mọi quốc gia phải dùng phương pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp, chiếu theo Điều 2 và điều 33 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, và chỉ được dùng võ lực khi tự vệ chính đáng, vì rằng từ nay chỉ có Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mới được giao phó việc dùng võ lực, để giữ hòa bình.

Có 3 thủ tục chính: (i) các thủ tục phi tài phán như thương lượng, hòa giải; (ii) thủ tục tài phán trước Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa án Trọng tài Luật Biển; và (iii) trình ra các cơ quan chính trị quốc tế như Đại hội đồng hay Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hay các tổ chức khu vực như ASEAN.

(i). Trước hết là thủ tục thương lượng và hòa giải

Về tranh chấp phân chia ranh giới vùng biển, như trường hợp chồng lấn giữa hai vùng đặc quyền kinh tế hay hai thềm lục địa của hai nước, thì khoản a Điều 298, cũng như Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS đòi hỏi các quốc gia có bờ biển gần nhau phải dùng tới các thủ tục đó, để nỗ lực đạt tới những giải pháp công bình (equitable solutions). Việt Nam theo đúng UNCLOS, đã kêu gọi thương lượng, tới chừng 30 lần, kể cả việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam liên lạc với lãnh đạo Trung Quốc mà Trung Quốc không hồi đáp. Việt Nam được công luận thế giới ủng hộ vì hành xử bình tĩnh hơn Trung Quốc, mang tiếng là “anh khổng lồ bắt nạt”. Vô hình trung, Việt Nam áp dụng ngọai giao mềm dẻo như ngọai trưởng Talleyrand của Napoleon đã khuyên trong câu: “trong ngọai giao, không nên hăm hở quá”, hay như vua Quang Trung làm lành xin cưới công chúa nhà Thanh sau khi đại thắng quân Thanh. Việt Nam nhấn mạnh đến nhu cầu thương lượng thân thiện giữa các nước bình đẳng theo đúng tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc, UNCLOS và các thỏa ước trong vùng nhưTuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) giữa ASEAN với Trung Quốc. Rõ ràng là sau khi nhận thấy các quốc gia Á châu lo ngại sự hung hãn của Trung Quốc qua những gì họ đã làm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào tháng 5 và 6.2014, sẽ khiến các nước này ngã theo Mỹ, Nhật, châu Âu, Ấn Độ, Úc, thì Trung Quốc mới dịu giọng mà gửi cho Văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tờ trình, gợi ý là có lẽ hai nước Trung Quốc và Việt Nam chưa có thương lượng về ranh giới biển, cho nên hai bên nên có dịp trình các yêu sách theo thủ tục UNCLOS. Và vào ngày 16.7.2014 thì Trung Quốc rút giàn khoan.

Ngoài thương lượng song phương, các quốc gia nhỏ tại Đông Nam Á phải cùng nhau, và cùng các cường quốc khi thích hợp, sử dụng ngọai giao đa phương để nói chuyện với Trung Quốc về vấn đề tự do lưu thông trên biển và khai thác tài nguyên trong vùng biển cả ngoài các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Phải có mặt trận thống nhất kiểu này mới làm chùn bước Trung Quốc khi vi phạm nền pháp trị quốc tế, vì Trung Quốc sẽ ngại bị cô lập hóa. Đặc biệt, Việt Nam nên sử dụng ngoại giao đa phương vì tuy là quốc gia mạnh nhất Đông Nam Á về quân sự, nhưng Việt Nam là ở tuyến đầu mà Trung Quốc nghĩ là có thể bắt nạt, để làm gương cho các nước nhỏ. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận rõ điểm này khi ông tuyên bố là Việt Nam muốn làm việc với ASEAN trước tiên về Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (Code of Conduct, COC) trước khi bàn với Trung Quốc, hay khi ông kêu gọi tại Diễn đàn Shangri-La là cần tạo “niềm tin chiến lược” (strategic trust).

Có nên dùng thương nghị để đạt các thỏa ước phát triển chung (joint development) hay không? Ông Đặng Tiểu Bình đề nghị 3 khẩu hiệu cho 3 thành tố của giải pháp của Trung Quốc cho các tranh chấp về đảo/đá và vùng biển ở Biển Đông: “zhu quan zai wo, ge zhi zheng yi, gong tong kaifa” (chủ quyền ở ta, gạt bỏ tranh chấp, hợp tác khai thác). Khẩu hiệu 2 chính là ước muốn của các nước Đông Nam Á, vì ta thấy nỗ lực vẫn tiếp tục cho việc triển khai DOC, vốn chỉ là khuyến cáo, thành COC có giá trị ràng buộc pháp lý, để giảm tranh chấp. Khẩu hiệu 3 chỉ là danh từ khác cho đường lối phát triển tài nguyên thiên nhiên trong thế giới ngày nay, tức liên doanh giữa một quốc gia với các xí nghiệp của quốc gia khác, thí dụ liên doanh khai thác dầu khí giữa hãng Mỹ và Việt Nam trong vùng biển Việt Nam, trong đó hợp đồng chia sản phẩm là một thành tố; không ai cần lo lắng về các liên doanh này. Chỉ có khẩu hiệu 1 của ông Đặng về chủ quyền là có thể gây lo ngại cho các nước nhỏ ở Đông Nam Á, vì có vẻ như Trung Quốc giống như con hổ nằm rình mồi sẽ xông ra nuốt chửng các nước yếu khi thâu tóm chủ quyền trên Biển Đông. Chúng tôi đề nghị giải tỏa nỗi lo sợ này bằng cách giảm hành vi đe dọa, bá quyền, lấn lướt của Trung Quốc với sự chất vấn liên tục trong thương lượng và có thể cả trong các vụ kiện trong các tòa án quốc tế, buộc Trung Quốc phải định nghĩa rõ, theo luật quốc tế, các yêu sách chủ quyền của họ và giới hạn của yêu sách ấy, trên đảo đá, trong các vùng biển. Cũng như trong tòa án quốc nội, cần có sự chất vấn (cross-examination) giữa các bên đương tụng thì chân lý mới sáng tỏ. Và trong tòa án quốc nội hay quốc tế, lập trường các bên sẽ ôn hòa hơn, phải chăng hơn, tránh được xung đột. Khi Trung Quốc phải trình ra các lý lẽ làm nền tảng cho các yêu sách của họ, theo tiêu chuẩn của luật quốc tế, họ sẽ bớt ngang ngược hơn, và sẽ tỉnh thức mà thấy là một đại cường muốn được kính trọng và có uy tín, tức là những thành tố của vai trò và ảnh hưởng của cường quốc, thì họ phải cư xử có trách nhiệm, có tốt lành, tôn trọng nền pháp trị, chứ không như kẻ côn đồ ngoài vòng pháp luật. Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói rằng: “Đương đầu với Trung Quốc cần phải cương quyết giữ vững lập trường, không sợ hãi, mà cũng không tỏ sự tức giận”.

(ii) Kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và Tòa án Trọng tài Luật Biển (ATLS)

a. Kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý Quốc tế về chủ quyền lãnh thổ trên quần đảo Hoàng Sa – mà Trung Quốc đang xâm chiếm của Việt Nam từ năm 1974, thì phải vượt qua được sự từ chối trình diện tòa của Trung Quốc vì họ sẽ không ký điều khoản nhiệm ý (optional clause) để nhận thẩm quyền của Tòa, do đó tòa sẽ có thể không thụ lý vụ kiện.

Nhưng thiết nghĩ có hai cách vượt trở ngại này.

– Trước hết, trong vụ Case Concerning United States Diplomatic and Consular Staff in Teheran II (US v. Iran) (ICJ 1980), khi một quốc gia từ chối trình tòa để phản đối thẩm quyền tòa, Tòa vẫn tuyên án được theo quy tắc sau: Nếu Tòa án Công lý Quốc tế thấy quốc gia vắng mặt trước đó, trong một văn kiện, như Hiệp ước thân hữu chẳng hạn, đã có ưng thuận nào đó về thẩm quyến tòa và hơn nữa quốc gia nguyên đơn có trình hồ sơ đầy đủ và có tính thuyết phục cao, Tòa có thể tuyên án dù quốc gia kia vắng mặt. Vậy Việt Nam mà trình bày đủ chứng cứ lịch sử và luận cứ pháp lý vững chắc về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, thì có thể xin một bản án có lợi, nếu có thể tìm ra sự ưng thuận ra tòa có trong Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc vào năm 2000. Hoặc có thể bắt chước Trung Quốc trong vụ kiện của Philippines không ra tòa án trọng tài nhưng xuất bản mấy ngàn trang sách về nội dung lập trường của mình, như một biện pháp vận dụng dư luận quốc tế; Việt Nam có thể chuẩn bị kỹ hồ sơ chủ quyền lãnh thổ trên Hoàng Sa mà đem nạp trong đơn kiện ở Tòa án Công lý Quốc tế, kèm lời mời Trung Quốc chấp nhận thẩm quyền của tòa để làm sáng tỏ vấn đề. Giáo sư Jerome A. Cohen trong Hội thảo quốc tế Hoàng Sa, Trường Sa – Sự thật lịch sử, tổ chức ở Đà Nẵng ngày 20.6.2014 mong đợi các quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á cứ đến gõ cửa Tòa án Công lý Quốc tế rồi mời Trung Quốc (nếu họ tin là lẽ phải về phần mình), thì ra tòa mà bàn luận. Dù Việt Nam có nạp hồ sơ và bị từ chối xét xử vì Trung Quốc không chịu trình tòa, thì cũng như đã “treo” được hồ sơ trước cửa Tòa cho thiên hạ đọc, và đạt được thắng lợi tuyên truyền trước công luận quốc tế.

– Thứ hai, Việt Nam hay một nước bạn của Việt Nam có ảnh hưởng mạnh, có thể yêu cầu Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hay một cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc xin một bản án cho ý kiến (advisory opinion)về bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa thì Tòa án Công lý Quốc tế cũng có thể cho. Thí dụ như trong án Advisory Opinion on the Western Sahara (ICJ 1975), do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc yêu cầu xin một bản án ý kiến về một yêu sách lãnh thổ, thì Tòa án Công lý Quốc tế đưa ra quy tắc là Tòa không cần sự ưng thuận của một quốc gia liên hệ mà vẫn cho một bản án ý kiến về một tranh chấp lãnh thổ.

b) Kiện Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài Luật Biển. Một quốc gia có thể dùng thủ tục bắt buộc (compulsory procedure) quy định trong các Điều 286 và 288 của UNCLOS để yêu cầu tòa giải thích và áp dụng các điều khoản của UNCLOS. Ngay trong tranh chấp về các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà một quốc gia, khi gia nhập UNCLOS, đã làm bảo lưu gạt bỏ ra khỏi sự ưng thuận ra tòa của họ, thì quốc gia khác, dựa vào khoản 4 Điều 298, cũng có thể đưa tranh chấp với quốc gia đã làm bảo lưu ra tòa theo thủ tục bắt buộc.

Như đã nói ở trên về các vi phạm của Trung Quốc mà Việt Nam có thể liệt kê như các điểm khiếu tố ra tòa (counts), Việt Nam có thể viện dẫn trong thủ tục bắt buộc trước Tòa án Trọng tài Luật Biển các vi phạm hay các điểm khiếu tố sau:

– Trung Quốc, trong các hành vi quanh giàn khoan HD-981 vừa qua, đã vi phạm khoản 1a Điều 297, vì đã ngăn cản, với tư cách quốc gia cận duyên, sự tự do lưu thông hàng hải và hoạt động khác như đặt cáp ngầm của quốc gia cận duyên khác.

– Trung Quốc có hành vi hung hãn bá quyền, không chịu thương lượng trong tinh thần hiểu biết và cộng tác, hay áp dụng các biện pháp tạm thời, dù Việt Nam đề nghị cả 30 lần.

– Trung Quốc có thể bị dân chài Viêt Nam kiện vi phạm nhân quyền của họ, trong một vụ họ kiện riêng, với sự ủy quyền của nhà nước Việt Nam, theo đúng tinh thần của UNCLOS.

(iii). Sự can thiệp chính trị của các tổ chức quốc tế

– ASEAN, với Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông luôn luôn có ích, và nên nỗ lực đạt tới Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông.

– Can thiệp của Tổng Thư ký hay Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc có thể làm hạ nhiệt sự hung hãn của Trung Quốc, nhất là có kèm theo các lời phê bình của các đại cường, như lời Thủ tuớng Nhật Bản Shinzo Abe hay lời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hagel phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2014. Sau khi Đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, trong tháng 5.2014, yêu cầu Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon can thiệp, và viết công hàm ngọai giao và ra thông cáo báo chí, than phiền là giàn khoan vi phạm luật quôc tế, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, nếu cần, sẽ dùng biện pháp tự vệ, thì Trung Quốc gợi ý nên có thương lượng giữa hai nước, nhất là về việc định ranh giới biển công bình, mà hai bên chưa làm. Trung Quốc cũng tuyên bố không dùng tàu chiến bảo vệ giàn khoan. Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và Văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc tỏ ra lạc quan. Và quả nhiên, nay thì giàn khoan rút đi.

Kết luận

Dư luận quốc tế, nhất là các nước phương Tây và Nhật Bản, Ấn Độ đã bênh vực cho lẽ phải của Việt Nam. Philippines thì mong Việt Nam khởi kiện sớm. Nay Việt Nam đã lỡ dịp kiện do giàn khoan đã rút đi, thì trong tương lai, phải chuẩn bị sớm và kỹ để lập tức kiện khi Trung Quốc gây sự lần nữa, ngõ hầu có dịp xác lập chủ quyền, chứ nếu không lại lỡ dịp nhờ pháp luật quốc tế để đẩy mạnh quyền lợi quốc gia của mình.

18.7.2014

Tác giả: GS Tạ Văn Tài là Tiến sĩ, Luật sư, cộng tác viên và cựu giảng viên Đại học Luật Harvard, Hoa Kỳ

nguồn: anhbasam.wordpress.com

Posted in Biển Đông: Hoàng Sa và Trường Sa | Leave a Comment »

►Nền y tế, giáo dục, văn hóa, của nước nhà vẫn như cũ, y như hồi 1958…

Posted by hoangtran204 trên 24/07/2014

Vẫn như cũ!

24-7-2014

GS Nguyễn Văn Tuấn

Nhìn kĩ những gì xảy ra ở VN gần đây thì tôi nghĩ VN chẳng đổi mới trong tư tưởng và cách hành xử. Có thể lấy vụ Nhã Thuyên để minh hoạ cho nhận xét đó. Nhã Thuyên viết một luận văn về một nhóm văn chương có tên là “Mở Miệng”, và luận văn được cho điểm tuyệt đối 10/10. Nhưng đùng một cái, người ta lập một hội đồng khác đánh giá lại luận văn và thu hồi bằng thạc sĩ của cô ấy. Trước và sau sự kiện đó, trên báo chí xuất hiện những bài viết “đánh” Nhã Thuyên, mà ngôn ngữ và luận điệu y chang như những bài thời Nhân văn Giai Phẩm. Như vậy, chúng ta thấy về học thuật, chẳng có gì đổi mới. VN vẫn là nước thiếu tự do học thuật. Vụ Nhã Thuyên cho thấy một cách rõ nhất nền học thuật VN chẳng có gì đổi mới so với thời bao cấp.

Có thể lấy ngành giáo dục ra làm một minh hoạ khác. Người lãnh đạo ngành giáo dục kêu gọi cải cách. Các nhóm nhân sĩ trí thức cũng cho rằng nền giáo dục VN cần phải có cải cách triệt để để hội nhập quốc tế. Nhưng làm sao cải cách được khi cái vòng kim cô chính trị vẫn còn lơ lửng trên đầu. Giáo dục VN hiện nay lẫn lộn giữa tuyên truyền và giáo dục. Mở bất cứ quyển sách giáo khoa nào về văn học, sử, thậm chí địa lí, chúng ta đều thấy rất nhiều nội dung trong đó mang tính tuyên truyền một chiều. Có những nội dung tuyên truyền mang tính bịa đặt (như câu chuyện Lê Văn Tám) nhưng mãi đến nay vẫn chưa sửa. Nói chung, chẳng có gì đổi mới gì trong giáo dục.

Ngành giáo dục chịu sử điều khiển của Ban tuyên giáo. Ban tuyên giáo là một thiết chế rất đặc biệt trong hệ thống tổ chức theo mô hình Mao – Stalin, có nhiệm vụ kiểm soát toàn bộ hệ thống văn học và giáo dục, thậm chí kiểm soát tư tưởng của người dân. (Mở ngoặc để nói thêm là thời đại ngày nay (với internet và xa lộ thông tin toàn cầu), có ai điên rồ đến nỗi kiểm soát suy nghĩ của người dân, vì việc làm đó hoàn toàn không thể và không tưởng). Nhưng về mặt cơ chế thì hoàn toàn chẳng có gì đổi mới.

Ở bất cứ cấp nào thì đảng và Nhà nước vẫn song song nhau. Về nhân sự, cách làm của VN cũng chẳng có gì đổi mới. Cách tuyển dụng cán bộ hay bổ nhiệm thì vẫn theo kiểu “qui hoạch” và “cơ cấu”. Tất cả mô hình hoạt động này đều là “di sản” của mô hình tổ chức Mao-Stalin. Nói cách khác, về cách tuyển dụng nhân sự, vẫn chẳng có gì đổi mới.

Nhìn bề ngoài thì có lẽ nhiều người nghĩ rằng VN đã đổi mới nhiều và hiện đại nhiều. Quan chức đã bắt đầu biết mặc veston và thắt caravat (thay vì mặc áo đại cán), biết nói chút đỉnh tiếng Anh. Cơ quan mới mẻ và văn minh hơn (chứ không còn tình trạng văn phòng có sẵn cái giường ngủ). Nhưng đó chỉ là bề ngoài, chứ phía trong thì tôi có cảm giác vẫn y chang như cũ, như thời bao cấp. Có khi nó thể hiện ra cách nói làm cho người ta ngỡ ngàng. Không hề có đổi mới trong tư duy và cách làm việc, thì rất khó mà nói đến chuyện hội nhập quốc tế.

 *Mời các bạn thưởng thức trình độ cao siêu của cán bộ đảng ta, đang làm đại biểu quốc hội

Phát biểu của đại biểu quốc hội Nguyễn Bắc Việt về tình hình căng thẳng tại Biển Đông 

.

https://www.youtube.com/watch?v=Wd03UkpoVa8

.

Nguyên Văn bài phát biểu của Đại Biểu Nguyễn Bắc VIệt (Ninh Thuận):

Kính thưa Quốc Hội, tôi xin được tham doa (gia) một số ý kiến như sau:

Thứ nhất về đánh giá tình hình, tôi cơ bản nhất tri báo cáo của chính phủ, ờ tuy nhiên với tính hình diễn ra gần đây thì cho thấy, thì cần phải đánh giá sát hơn nữa tình hình. Thứ nhất (lần 2) về chiến lược Biển có thể nói trong thời gian qua thực hiện chiến lược biển theo nghị quyết TW 7 khóa X chưa được quan tâm đúng mức, cho nên sự kiện biển đông thì chúng ta mới thấy cần cái đội tầu hiện đại, cần cái tầu thuyền công xuất lớn cho ngư dân đánh bắt xa bờ dài ngày chúng ta mới thấy cần cái dịch vu hậu cần cho nghề cá (Biển Đông là vấn đề khẳng định quyền lãnh thổ quốc gia, trong đó có địa lý chính trị, giao thương, khoáng sản, hải sản…chứ không phải chuyện giành giựt đánh cá mà sắm tầu lớn tầu nhỏ thưa ngài), nghị quyết TW nêu nhưng đến nay nhất là sau sự kiện vinashin chúng ta đã không tập trung đúng mức (ở đâu tọt vô vụ Vinashin?).

Thứ 2: Trong đánh giá cần phải nhìn nhận và đánh giá tình hình bảo vệ mội trường gắn với phát triển bền vững thời gian vừa qua và gần đây có thể nói có những vấn đề chúng ta thấy là trong điều hành lãnh đạo chưa tốt từng địa phương, đây địa phương chúng tôi thấy rất rỏ có cái điễm này không phải chỉ vấn đền đất đai mà dân khiếu kiện, mà bây giờ là vấn đề bảo vệ môi trường liên quan đến đời sống của ND, thì theo chúng tôi thì cần phải có sự nhìn nhận đánh giá để có giải pháp (một lần nửa ở đâu rơi xuống chuyện môi trường? vá tự nhiên cần đánh giá , có giài pháp?).

Thứ 3: Trong đánh giá chúng ta cần phải thấy đó là vẫn còn biểu hiện chủ quan mất cảnh giác trước âm mưu chóng phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Vệt Nam, thực tế sự kiện Biển Đông từ ngoài khơi nhưng mà vào bờ liên quan đến đập phá là có vấn đề thì chúng ta thì cần phải thấy và…(Đất nước lâm nguy bị TQ chiếm Biển, đang cần cầu viện từ liên minh thì cha này nói: âm mưu của thế lực thù địch? cho hỏi âm mưu nào? thế lực thù địch nào? họ ở đâu? tên gì? thưa ngài!).

Thứ 4: theo tôi thì cần phải đánh giá thực sự đó là lòng dân, cán bộ đảng viên chưa yên trước bất ổn của thị trường tiêu thụ, trước tham nhũng tiêu cực, trước tệ nạn XH, trước trật tự an toàn XH, trước yêu cầu của việc làm, trước yêu cầu của thực hiện chế độ chính sách cho các đối tượng mà chúng ta còn nợ 2 đề án(?) đến nay vẫn chưa cho ý kiến, cái đấy là về tình hình thì tôi xin tham gia một số ý kiến như vậy, còn vấn đề Biển Đông theo tôi thì từ sáng đến giờ và những ngày qua trong phát biểu thì có thể nói tôi đồng tình với các ý kiến phát biểu ở một vế đó là vế thể hiện lòng yêu nước (Lòng yêu nước được gọi là Vế?) nhưng còn một vế theo tôi thì chúng ta chưa thực sự quan tâm đó là yêu chế độ và lo cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (lấy lòng yêu nước để lo phong trào cộng sản quốc tế? trong khi mình đang bị TQ hiếp dâm vẫm một mực đi lo cho quốc tế?).

Xin báo cáo với các đồng chí thì thời điểm này chúng ta nên nhớ di chúc của Bác (Lại lôi Bác ra…), Bác để lại cho chúng ta lời di chúc trong đó khi nói về phong trào cộng sản Bác đã nói: ” là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đâu lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”, tôi mong rắng đảng ta sẽ ra sức hoạt động góp phần đắc lực về việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em, trên nền tảng chủ nghĩa max-lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý có tình (khối đại đoàn kết này mất rồi từ khi Đông Âu tan rã và Liên bang nga sụp đổ rồi thưa ông), dẩn 2 lời di chúc của Bác từng với lời căn dặn của Bác với cụ Huỳnh Thúc Khác trước khi Bác lên đường đi sang Pháp năm 46, Bác có dặn “dí bất biến, ứng vạn biến” Theo tôi dí bất biến ứng vạn biến bây giờ đó là độc lập dân tộc phải gắng với chủ nghĩa xã hội, rất tiếc trong phát biểu chúng ta chưa thực sự quan tâm đến nội dung này chính vì vậy theo tôi đối với chúng ta hiện nay chúng ta cái cần đó là làm sao chúng ta sớm làm diệu tình hình Biển Đông, hai chúng ta phải chủ động đấu tranh với âm mưu chóng phá của các thế lực thù địch.

Thứ 3 bảo đảm môi trường ổn định hòa bình của việt nam của khu vực và của thể giới và chính vì vậy đối sách giải pháp của chúng ta thì theo tôi:  thứ 1, phải sác định cho rỏ nguyên nhân, phải biết đau lòng với tình hình hiện nay của phong trào cộng sản công nhân quốc tế 2 nước XHCN lình xình với nhau như thế này ai có lợi? (Ông ta không đâu lòng vì đất nước và dân tộc mà đau lòng vì 2 AE XHCN xích mích nhau);  thứ 2, phải kiên định mục tiêu lý tưởng “dí bất biến, ứng vạn biến” như Bác đã căn dặn đó là phải làm sao dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH (nghĩa là không có XHCN dân tộc không có độc lập?), đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho cách mạng Việt Nam từ khi có đảng đến nay, xem nhẹ chúng ta sẽ chệch hướng. Thứ 3, nắm chắc quan điểm đường lối phương pháp cách mạng pháp luật của VIệt Nam trong đấu tranh hiện nay sử dụng luật biển Việt Nam, sử dụng hiến pháp của chúng ta để đấu tranh và thứ 4 xiết chặt kỷ cương thông tin trê báo chí, bảo đảm đúng địng hướng (Như vậy HCM đi tỉm đường cứu nước để được tự do là vô nghĩa thưa Ngài?).

Và những việc cần làm ngay thì theo tôi thì chúng ta cần cái thứ nhất phải làm sao gập gở tiếp xúc với TQ để làm diu tình hình Biển Đông sớm đưa lại tình hình như trước khi xẩy ra sự kiện (TQ đang ăn cướp, mình bị ăn cướp lại tìm cách làm dịu tình hình? hay nói cách khác Vợ ông bị hiếp dâm xong ông đi xoa dịu tình hình với thằng hiếp dâm?), thứ 2 sử lý nghiêm minh các đối tượng kích động thông báo công khai và thứ 3 là không vì tình hình Biển Đông mà sao nhảng nhiệm vụ phát triển kinh tế XH của đất nước (Biển Đông liên quan trực tiếp đến kinh tế thưa ngài con Lừa ạh)….tôi xin hết ý kiến.

Posted in Giao Duc | Leave a Comment »

►Giới thiệu hồ sơ lưu trữ về quan hệ ngoại giao của VNCH tới năm 1958–Công hàm Phạm Văn Đồng

Posted by hoangtran204 trên 24/07/2014

Giới thiệu hồ sơ lưu trữ về quan hệ ngoại giao của VNCH tới năm 1958

Trong thảo luận về hiệu lực của Công hàm Phạm Văn Đồng có vấn đề về tư cách quốc gia (state) của VNCH ở thời điểm 14/9/1958 (lúc công hàm đưa ra). Dù tâm tư, nguyện vọng của đa số dân chúng cũng như lãnh đạo miền Nam lúc đó đều cho rằng quốc gia Việt Nam chỉ là một, và ngay cả lời nói đầu hiến pháp VNCH 1956 cũng hàm ý này “[ý] thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan”. Tuy nhiên, nhìn ở góc độ luật pháp quốc tế thì VNCH có vẻ hội đủ các tiêu chuẩn để có tư cách một quốc gia: có dân số thường xuyên, có lãnh thổ xác định, có chính phủ, và có năng lực tham gia vào mối quan hệ với các quốc gia khác như nêu trong công ước Montevideo 1933.

Ở thời điểm 4/1975 thì tư cách này có vẻ hiển nhiên: lúc đó VNCH đã thiết lập ngoại giao với 87 quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia khác ở cấp bán chính thức, và dĩ nhiên trên thực tế cũng có dân số thường xuyên, có lãnh thổ xác định, có Chính phủ, tức là hội đủ 4 tiêu chuẩn để có tư cách quốc gia .

Còn vào thời điểm 14/9/1958, thì trên thực tế VNCH cũng đảm bảo được 3 tiêu chuẩn dân số, lãnh thổ, chính phủ; và tiêu chuẩn có năng lực tham gia vào mối quan hệ với các quốc gia khác thì có vẻ vẫn đảm bảo. Theo danh sách các nước công nhận VNCH cho tới ngày 7/8/1958 lưu ở Văn khố quốc gia Úc (NAA) có tới 62 nước chính thức hoặc hàm ý công nhận VNCH. Danh sách này ở trang 40-42 (và 44,45) trong hồ sơ “Saigon – Vietnam relations with other countries general [re Republic of Vietnam also known as South Vietnam]” gồm 157 trang số hiệu NAA: A4531, V221/5, có thể truy cập trực tuyến ở recordsearch.naa.gov.au. Xin giới thiệu bản chính và bản dịch danh sách này tới tất cả các bạn đọc có quan tâm:

1. Bản chính:

clip_image002

clip_image004

clip_image006

2. Bản dịch:

____________________________________

Hồ sơ V 221/5

669

18 tháng 8 năm 1958

Bộ trưởng,

Bộ ngoại giao,

Canberra.

Việt Nam: Công nhận bởi các quốc gia khác

Đính kèm là danh sách (tính đến 7 tháng 8 năm 1958) tất cả các nước hiện công nhận Việt Nam Cộng Hoà cùng với ngày mà họ công nhận nước Cộng hòa này.

(đã ký)

(D.C Nutter)

Thứ trưởng

DANH SÁCH CÁC NƯỚC CÔNG NHẬN NƯỚC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

1. Hoa Kì 26.10.1955

2. Pháp –

3. Vương quốc Anh –

4. Úc –

5. New Zealand –

6. Thái Lan –

7. Nhật Bản –

8. Ý –

9. Trung Hoa QDĐ 27.10.1955

10. Hàn Quốc –

11. Hà Lan 1.11.1955

12. Philippines 2.11.1955

13. Tây Ban Nha 3.11.1955

14. Cuba –

15. Haiti –

16. Bolivia 6.11.1955

17. Ecuador –

18. Brazil 8.11.1955

19. Liberia –

20. Nicaragua –

21. Chile 10.11.1955

22. Hy Lạp –

23. Luxembourg 11.11.1955

24. Argentina 12.11.1955

25. Costa Rica 13.11.1955

26. Canada 14.11.1955

27. Lào 15.11.1955

28. Thổ Nhĩ Kỳ 18.11.1955

29. Bỉ 22.11.1955

30. Áo 23 11.1955.

31. Tây Đức 5.12.1955

32. Vatican 9.12.1955

33. Liên minh Nam Phi 14.12.1955

34. Honduras 12.12.1955

35. Venezuela 15.12.1955

36. Guatemala –

37. Colombia 6.1.1956

38. Sudan 5.2.1956

39. Jordan 21.2.1956

40. Bồ Đào Nha 24.5.1955

41. Đan Mạch 3.1.1957

42. Lebanon 5.3.1957

43*. Ghana 6.3.1957

44*. Ma-rốc 18.6.195

45*. Tunisia 3.8.1957

46*. Malaysia 31.8.1957

47. Thụy Sĩ 1.4.1958

48. Thụy Điển 3.7.1958

49*. Iraq 2.8.1958

——————————–

50. Indonesia

51. Na Uy

Indonésia và Na Uy tương ứng đã trao đổi giấy chấp nhận tổng lãnh sự và lãnh sự ở Sài Gòn, theo luật pháp quốc tế coi như một công nhận “theo pháp lí “(de jure”)

——————————-

Các nước sau đây không thông báo chính thức công nhận nhưng đã bỏ phiếu cho VNCH gia nhập Liên Hiệp Quốc, hàm ý công nhận VN:

52. Ireland (Ai-len)

53. El Salvador

54. Peru

55. Panama

56. Uruguay

57. Iran

58. Ethiopia

59. Cộng hòa Dominica

——————————-

60. Ấn Độ: Ấn Độ đã bổ nhiệm một Tổng lãnh sự ở Việt Nam dù không có giấy chấp nhận lãnh sự

61. Miến Điện: Miến Điện đã nhận một Tổng lãnh sự của Việt Nam dù không có giấy chấp nhận lãnh sự; điều này tương đương với việc công nhận “trên thực tế” (de facto)

62. Campuchia: Vả lại. Campuchia và Việt Nam đã trao đổi đại diện.

(Danh sách cập nhật đến ngày 7/8/1958)

_________________________________

* Nước được Việt Nam Cộng Hòa công nhận.

Theo Bauxite

  1. Thủy Quân Lục Chiến VNCH bắt sống quân Trung Cộng tại Hoàng Sa

Posted in Miền Nam trước ngày 30-4-1975 | Leave a Comment »

►Việc thi hành hiệp định Genève- (Trần Gia Phụng)

Posted by hoangtran204 trên 23/07/2014

.

Ho Chi Minh, president of the Democratic Republic of Vietnam, speaking at City Hall, Paris,

on 4 July 1946, during negotiations with the French. AP Photo

Nét mặt của ông HCM đã thay đổi rất nhiều từ 1945, 1946, và 1954. Hình của AP thì chắc chăc là không thể tô vẽ gì, tấm hình thứ 2 (1945?) có dấu vết chỉnh sửa làm cho sáng lên. Hình thứ 3 chụp chung với Chu Ân Lai cũng có dấu chỉnh sửa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại chiến dịch Biên giới (1950) 

Nguồn: ngoisao.vn

http://en.wikipedia.org/wiki/Ho_Chi_Minh

Việc thi hành hiệp định Genève

Tác giả:

20-7-2014

eca86ba05494149e2cd538

Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Cộng Sản Việt Nam (CSVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?

Hiệp định Genève

Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève)gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:

Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam Viêt Nam. Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm “khu đệm”, có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương. Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).

Ai vi phạm hiệp định Genève

Hiệp định này ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.

Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.

Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau:

Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị (Chu Ân Lai và hội nghị Genève) Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet).

Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm… (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)

Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định đã ký kết.

Cộng sản đòi hỏi điều không có

Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Thế mà ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành.

Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.

Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)

Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng “đồng ý”. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký.

Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.

Cộng sản bịa đặt lý do để tấn công QGVN

Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.

Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành.

Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.

Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng. Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.

Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.

Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn bịa đặt. Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như Lê Duẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô” (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)

Kết luận

Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định. Trong khi VNDCCH liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước. Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genéve xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển.

Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.

© Trần Gia Phụng
© Đàn Chim Việt

Tác giả:

Posted in Hiệp định Geneve 20-7-1954 | 1 Comment »

►Luật sư nói với đài BBC: ‘Chưa có cơ sở’ nói Ba Sàm sắp được thả-

Posted by hoangtran204 trên 22/07/2014

.
.

Luật sư Hà Huy Sơn nói sức khỏe của ông Nguyễn Hữu Vinh có “kém đi so với bên ngoài”

Luật sư bào chữa cho blogger Nguyễn Hữu Vinh (tức Ba Sàm), nói thông tin về việc ông sắp được trả tự do là “chưa có cơ sở”.

Nhận định trên được ông Hà Huy Sơn đưa ra để phản hồi lại thông tin trên trang mạng của Hội nhà báo Độc lập Việt Nam trước đó.

Hôm 21/7, trang Việt Nam Thời báo đăng tải bài viết của nhà báo Phạm Chí Dũng cho biết ông Vinh “có thể được trả tự do trong thời gian tới”, theo “những thông tin không chính thức”.

Ông Vinh bị bắt giữ hồi đầu tháng Năm cùng với bà Nguyễn Thị Minh Thúy vì cáo buộc “Lợi dụng quyền tự do dân chủ” theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự.

Trả lời BBC hôm 22/7, Luật sư Hà Huy Sơn cho biết thông tin trên trang Việt Nam Thời báo là “chưa có cơ sở xác nhận”.

“Tuần này tôi vẫn tiếp tục làm việc với điều tra viên, chưa có thông tin chính thức gì cả”, ông nói.

“Chưa có dấu hiệu gì là tạm đình chỉ vụ án, chưa có dấu hiệu thả đâu”.

Ông Sơn cũng cho biết ông “không có nhiều hy vọng” rằng thân chủ sẽ sớm được trả tự do.

Trong cuộc nói chuyện qua điện thoại với BBC cùng ngày, nhà báo Phạm Chí Dũng thông báo đầu tháng Tám này sẽ là thời điểm lệnh tạm giam lần một đối với ông Nguyễn Hữu Vinh kết thúc.

Luật sư Sơn cũng xác nhận “ngày 5/8 này sẽ hết thời hạn điều tra ba tháng”.

Tuy nhiên, ông cho biết “theo luật thì người ta có thể gia hạn thêm ba tháng nữa”.

“Có lẽ đến gần ngày đấy mới biết được”, ông nói thêm.

Luật sư Sơn cũng cho biết hiện sức khỏe của ông Vinh “kém đi so với khi ở bên ngoài, nhưng tinh thần vẫn tốt.”

‘Làm rõ hành vi sai phạm’

Blogger Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy bị bắt ngày 5/5 vì cáo buộc “đã có hành vi đăng tải các bài viết trên mạng Internet nội dung xấu, thông tin sai lệch làm giảm uy tín, mất lòng tin trong nhân dân về cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân, quy định tại Điều 258 – Bộ luật Hình sự”, theo thông báo từ Bộ Công an.

Thông báo cũng nói cơ quan điều tra đang “làm rõ hành vi sai phạm của Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy để xử lý theo quy định của pháp luật.”

Ông Nguyễn Hữu Vinh nổi tiếng với vai trò sáng lập và điều hành trang điểm tin Ba Sàm.

Ông từng là sỹ quan an ninh, sau ra ngoài mở công ty thám tử tư.

Tuy vậy, hơn một năm qua, ông đã thôi điều hành trang tin này, chuyển cho một quản trị ở bên Hoa Kỳ.

Tin cho hay ông từng có liên quan tới hai trang mạng đăng nhiều thông tin thuộc diện “nhạy cảm” là Dân Quyền và Chép Sử Việt.

Posted in Bắt bớ-Tù Đày-Đánh đập-Đàn Áp, Tự Do ngôn Luận | Leave a Comment »