Trần Hoàng Blog

Archive for Tháng Ba, 2015

►Than Khoáng Sản VN (TKV) bị Trung Quốc lừa lỗ 37,4 triệu đô la

Posted by hoangtran204 trên 31/03/2015

Giới chuyên gia Việt Nam vừa đưa ra kết luận mới nhất là nếu thực hiện đúng kế hoạch sản xuất đủ 660,000 tấn alumin trong năm nay, Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) sẽ lỗ 37.4 triệu USD.

Bùn đỏ vương vãi, chỉ cần mưa lớn là tràn ra ngoài. (Hình: Tuổi Trẻ)

Những chuyên gia này cho biết, tất cả các dự án bauxite của Việt Nam đều có mức độ rủi ro lớn và rủi ro sẽ tăng theo thời gian.

Thông thường, Việt Nam không đủ khả năng tự soạn thảo hồ sơ mời thầu, thiết kế kỹ thuật, thẩm định hồ sơ dự thầu nên phải thuê tư vấn. Đối với hai dự án bauxite Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông), TKV không thuê tư vấn mà tự làm. Lẽ ra khi tự làm, TKV sẽ tiết kiệm được 5% tổng giá trị gói thầu là 659 tỷ. Tuy nhiên trên thực tế, khi TKV tự làm, chi phí quản lý và tư vấn dự án đã tăng thêm 800 tỷ!

Ông Nguyễn Thành Sơn, cựu giám đốc Ban Quản Lý Dự Án Than Đồng Bằng Sông Hồng, vốn là người phản đối kịch liệt việc thực hiện các dự án bauxite, nhận định, TKV đã tự sập bẫy của chính mình. Tưởng làm lấy sẽ rẻ nhưng cuối cùng không hề rẻ.

Song chuyện đó chưa đau bằng việc TKV bị nhà thầu Trung Quốc lừa. Ông Nguyễn Văn Ban, cựu trưởng ban Alumin của tổng công ty Khoáng Sản Việt Nam, kể lại, khi tranh thầu, nhà thầu Trung Quốc đã đưa giá rất thấp và thắng thầu vì các nhà thầu khác ở phương Tây theo không nổi. Song khi ký hợp đồng thì giá bỏ thầu và giá trên hợp đồng chênh lệch rất xa. Nhà thầu Trung Quốc giải thích, sở dĩ có sự chênh lệch như vậy là vì… trong giá bỏ thầu nhà thầu Trung Quốc chưa tính đến các thiết bị dự phòng.

Ông Nguyễn Thành Sơn nói thêm, kinh nghiệm của nhà thầu là điều kiện tiên quyết trong việc lựa chọn nhà thầu. Nhà thầu Trung Quốc cho biết công nghệ sử dụng ở nhà máy Tân Rai là công nghệ Bayer – công nghệ được xem là hiện đại nhất song hiện nay, riêng khâu xử lý alumina đã tổn thất 30% lượng bauxite. Nói cách khác, cứ 3 tỷ hoặc 10 tỷ tấn bauxite thì mất đi khoảng 1 tỷ hoặc 3 tỷ tấn.

Trên thế giới, muốn có một tấn sản phẩm thì cần hai đến năm giờ công cho toàn nhà máy. So với quy mô của nhà máy Tân Rai thì chỉ cần 250 đến 300 công nhân nhưng trên thực tế, nhà máy Tân Rai đang sử dụng hơn 1,000 lao động.

Cũng vì vậy, giá thành của alumin là 403 đến 464 Mỹ kim/tấn, trong khi giá bán mà TKV bán ra chỉ từ 324 đến 346 Mỹ kim/tấn. Năm 2013, tỉ lệ thua lỗ là 20%, năm 2014 tăng lên thành 21%, riêng năm nay, mức thua lỗ theo dự tính là 14% nếu sản xuất đủ 660,000 tấn theo kế hoạch.

Các dự án bauxite không chỉ thua lỗ mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây ra các thảm họa môi trường. Ông Nguyễn Văn Ban, cho biết ngay tại Trung Quốc cũng chưa có nhà máy nào xử lý quặng bauxite tương tự như kiểu đang làm tại Việt Nam. Hai nhà máy bauxite mà nhà thầu Trung Quốc xây dựng tại Việt Nam đều có tính “thử nghiệm.” Thành ra thiết kế, vận hành, quy trình công nghệ đều không có gì bảo đảm.

Ông Ban còn nhấn mạnh, so với các nhà máy bauxite khác trên thế giới, hai nhà máy bauxite vận hành theo kiểu Trung Quốc tại Việt Nam tiêu hao gấp đôi lượng nước, tỉ lệ tiêu hao năng lượng cao hơn 25%, tỉ lệ kiềm cao hơn từ 5 đến 7 ký/tấn alumin nhưng thực thu alumin chỉ đạt 85% trong khi mức bình quân trên thế giới là 87%.

Ông Nguyễn Thành Sơn kết luận, trước kia, bàn đến các dự án bauxite ở Việt Nam, người ta chỉ lo âu về các thảm họa liên quan đến môi trường. Nay khi các nhà máy đã hoạt động, phải lo thêm về hiệu quả kinh tế. (G.Đ)

Posted in Bauxite, Làm ăn chung với Trung Quốc | Leave a Comment »

►Viễn Cảnh Việt Nam Trong Cục Diện Chính Trị Thế Giới Đổi

Posted by hoangtran204 trên 28/03/2015

Tác giả Nguyễn Cao Quyền

27-3-2015

Nền móng quyền lực của các quốc gia đang thay đổi nhanh chóng khi con người bước vào thiên niên kỷ thứ ba. Chúng ta đang giáp mặt với một kỹ nguyên hoàn toàn khác lạ trong đó tài nguyên quan trọng nhất cho sự phát triển đất nước lại không thuộc loại tài nguyên có thể cảm nhận bằng thị giác hoặc súc giác.

Thật vậy, đất đai ngày nay không còn quan trọng bằng trí tụê. Tư bản, nhân công hay những kho hàng đầy ắp không quan trọng bằng lưu lượng của những thứ đó qua thời gian. Vào thời điểm chúng ta đang sống , các quốc gia phát triển không tranh nhau ngôi vị bá chủ thế giới nữa mà chỉ phấn đấu làm sao để có được khần chia lớn nhất của tổng sản lượng toàn cầu.

Một loại quốc gia mới đang xuất hiện trên trận đồ thế giới, được mệnh danh là quốc gia thực quyền (virtual state). Loại quốc gia này phát triển trên cơ sở của những dòng chảy càng ngày càng mạnh của tư bản và nhân công trên khắp mặt địa cầu, cũng như trên cơ sở của khả năng thông tin chớp nhoáng mà khoa học kỹ thuật hiện đại đã trang bị cho nhân loại. Họ đã hoàn toàn thoát ly khỏi đất đai và đang thu hẹp đối đa kích thước của các xí nghiệp để có thể tập trung vảo các khâu thiết kế sản phẩm, cải tiến kỹ thuật quản lý, khai thác hướng di chuyển và sự thăng trầm của lưu lượng tư bản quốc tế.

Mẫu hình rõ rệt nhất của loại quốc gia kiểu mới này là tiểu quốc Tân Gia Ba. Xét về phương diện đất đai quốc gia này chỉ là một tỉnh nhỏ không có dầu khí, quặng mỏ hoặc qúy kim, vậy mà trong mấy thập kỳ gần đây Tân Gia Ba đã phát triển lẫy lừng nhờ trí tuệ. Cùng với Hương Cảng và Đài Loan, Tân Gia Ba đã trở thành những tấm gương phát triển sáng chói cho toàn thể thế giới noi theo.

Nghiên cứu hiện tượng này, người ta thấy loại quốc gia lý tưởng nói trên đều là những quốc gia thương mại (trading states). Vào thập niên 1960, khi thương phẩm dễ lưu động hơn tư bản và nhân công thì việc xuất cảng càng hóa được coi là thượng sách cho mục tiêu phát triển, nhưng từ khi người ta thấy rằng tư bản cũng dễ di chuyển chẵng thua kém gì thương phẩm thì vấn đề xuất cảng đã tụt xuống hàng thứ yếu để nhường chỗ cho những vụ đầu tư trực tiếp tại những địa phương có nhân công giá rẻ.

Những đoạn viết sau đây sẽ triển khai quá trình hình thành và thăng tiến của các quốc gia thực quyền để từ đó rút ra những nhận xét hữu ích cho công cuộc đấu tranh dân chủ đang tiến hành.

Từ mục tiêu chiếm cứ đất đai đến mục tiêu thương mại

Theo quan niệm cổ điển, người ta nghĩ rằng đất đai là chìa khóa của phát triển và quyền lực. Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Hoà Lan đã trở thành cường quốc nhờ bành trướng đất đai từ giữa thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Hoa Kỳ, Gia Nã đại, Úc, Tân Tây Lan, một thời cũng đã đi theo con đường phát triển này.

Tuy nhiên, trong lúc phong trào chiếm cứ đất đai còn đang rầm rộ thì Anh quốc là nước đầu tiên đã nhìn thấy ưu thế của tư bản so với những yếu tố sản xuất khác. Khai thác tối đa đặc tính của tư bản, nước Anh, ngay từ ngày đầu của cách mạng công nghiệp đã đầu tư mạnh mẽ vào kỹ nghệ dệt với những máy móc tối tân. Kết quả là dân tộc Anh đã trở thành giàu có nhờ số vải vóc sản xuất nhanh chóng bán ra tràn ngập thị trường thế giới.

Mãi đến cuối thế kỷ 18 các cường quốc khác mới trông thấy sự lợi hại của khả năng lưu động của tư bản so với nhân công và đất đại. Dần dần, với thời gian, đất đai ngày càng mất giá và trở nên khó giữ vì phong trào dân tộc nổi lên khắp nơi đòi lật đổ các chế độ thuộc địa. Bừng mắt tỉnh, các cường quốc tư bản rứt khoát từ bỏ tham vọng đất đai để chỉ còn tập trung vào việc khai thác nhân công và tư bản. Sự chuyển hướng này giải thích hiện tướng mất giá của các sản phẩm thô trục lên từ lòng đất, so với giá của các sản phẩm hoàn chế, vào thời gian trước khi xẩy ra sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.

Ngày nay với những thành tựu mới của khoa học tối tân hiện đại, lại đến lượt các sản phẩm hoàn chế bị mất giá so với các dịch vụ quốc tế. Hiện tượng này làm xuất hiện một hình thức kinh doanh mới được cụ thể hóa qua sinh hoạt của các quốc gia thương mại. Nở rộ vào khoảng thời gian 1870-1980 các quốc gia thương mại không nhằm bành trướng đất đai mà chỉ còn tập trung vào nghiệp vụ thương mại quốc tế mà thôi. Các tiểu quốc ở Âu Châu và Đông Á, nhật Bản và Tây Đức là những quốc gia thương mại đầu tiên của thế giời sau Thế Chiến II.

Sự canh tranh quốc tế ngày càng trở nên ác liệt. Để thi đua hữu hiệu các quốc gia thương mại bắt buộc phải điều chỉnh cung cách làm ăn thế nào để có thể hạ giá thành sản phẩm tới mức thấp nhất. Chiến lược này đòi hỏi phải chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài để tranh thủ nhân công rẻ mạt.

Từ chiến lược nói trên, người ta thấy xuất hiện một lọai công ty mới được mệnh danh là công ty thực quyền (virtual corporation). Quốc gia nơi công ty có trụ sở chính gọi là quốc gia thực quyền (virtual state). Tại đây công ty chỉ tập trung vào nhừng công việc đòi hỏi trình độ khoa học kỹ thuật cao như thiết kế sản phẩm, nghiên cứu tiếp thị, hoạch định phương án tài trợ. Khâu sản xuất được nhường lại cho những phân bộ đầu tư tại những nơi có nhân công hời giá.

Từ công ty thực quyền đến quốc gia thực quyền

Tại Á Châu, Nhật Bản, Nam Hàn, Tân Gia Ba, Đài Loan, Hương Cảng là những quốc gia thực quyền tiên phong. Tại Âu Châu Thụy Điển, Hoa Lan là những quốc gia thực quyền dẫn đạo. Nhưng nghịch lý mà chúng ta cần chú trọng ở đây là Anh quôc, Đức Quốc và cả Hoa Kỳ nữa, vẫn chưa được coi là quốc gia thực quyền vì tại các quốc gia này khâu sản xuất trực tiếp vẫn còn giữ một vai trò đáng kể. Tuy nhiên chiều hướng chung của họ là đang phấn đấu để nhanh chóng tiến dần đến quy chế nói trên.

Với sự xuất hiện của các quốc gia thực quyền, thế giới hiện nay đang tự phân chia thành hai nhóm : nhóm quốc gia đầu não (head nations) và nhóm quốc gia thân thể (body nations). Cũng còn rơi rớt một số quốc gia mang cả hai đặc tính này. Trong khi Úc và Gia Nã Đại đang tiến lên ngôi vị quốc gia đẩu não thì Trung Quốc mới tiến vào vị trí của một quốc gia thân thể. Trước mắt có tể nhìn thấy Nga, Ấn Độ và Trung Quốc như những nước tiêu biểu cho hàng ngũ các quốc gia thân thể này.

Một thế giới không chiến tranh

Với một trận đồ quốc tế mới như được mô tả ở trên có thể nói là thế giới sẽ không có chiến tranh. Không có chiến tranh là vì cách làm ăn giữa các quốc gia đầu não và các quốc gia thân thể là một tương quan bình đẳng và đôi bên cùng có lợi. Nếu biết học hỏi và làm ăn sáng tạo thì các quốc gia thân thể cũng sẽ nhanh chóng chuyển lên vị thế đầu não như ai, chứ không bắt buộc phải ở vị thế tay chân muôn thuở. Trò chơi như vậy là rất công bằng và dân chủ, để ai cũng có phần nấy tùy theo khả năng và trình độ.

Sự hợp tác chân thành trong cung cách làm ăn để cùng phát triển như mô tả ở trên đã trở thành xu thế tất yếu của nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba. Nó đã được đa số chấp nhận vì không còn con đường nào tốt đẹp hơn.

Trước kia khi việc thông tin liên lạc còn khó khăn và cộng đồng thế giới chỉ gồm toàn những quốc gia cô lập về kinh tế thì sự xích mích giữa những thành phần của cộng đồng rất dễ xảy ra vì ai cũng chỉ nhìn thấy quyền lợi dưới nhãn quan chật hẹp của đất nước mình. Ngày nay, đặc biệt là trong mấy thập kỷ gần đây, nhờ sự tiến bộ vũ bão của các phương tiện truyền thông hiện đại, thế giới đã thu hẹp lại rất nhiều. Tất cả nhân loại vào lúc này chỉ có chung một mái nhà. Ý thức này đã được cảm nhận rộng rãi khắp mọi nơi và cắc chắn sẽ trở thành một thái độ tự nhiên của các thế hệ tiếp theo.

Đây là một khúc quanh lớn trong lịch sử loài người. Nhân loại từ nay trở đi sẽ không còn cần tới những ý thức hệ viển vông vì thực tế đã đẩy lùi mọi mơ mộng hão huyền. Viễn tượng một thế giới đại đồng và một thiên đường trong đó của cải tuôn ra như suối từng giờ từng phút như Marx hằng mơ ước, ngày nay đã là sự thật sơ sờ trước mắt. Có điều thiên đường đó không phải là thiên đường cộng sản mà là thiên đường tư bản.

Thực tế phũ phàng này sẽ nhanh chóng chuyển đổi những quan niệm và tập quán lỗi thời cũa những thành phần cổ hủ khư khư ôm giữ thời gian tại vị lâu dài đề thủ lợi riêng tư trên sương máu và nỗi thống khổ triền miên của quần chúng. Chúng ta đã bước sang thiên niên kỷ mới của ý niệm toàn cầu hóa, của tinh thần hợp tác-tương trợ giữa các dân tộc, của sự thượng tôn nhân quyền, của chế độ dân chủ và kinh tế thị trường phổ biến, của tình thương nhân loại, cho nên không còn chỗ đứng cho những tư tưởng và chủ thuyết lỗi thời đi ngược lại với ý hướng và nguyện vọng tự nhiên của con người.

Thoát ly khỏi đất đai là điều kiện cần thiết để cất cánh

Đối với những nước đông dân cư như Việt Nam, con đường phát triển trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện tại là phải đầu tư và quan tâm tối đa vào vấn đề giáo dục và nghiên cứu. Đây là một mục tiêu trường hạn cần được thực hiện với một thái độ quyết tâm và một tinh thần nghiêm túc. Các khu vực nông nghiệp, kỹ nghệ và dịch vụ phải được hỗ trợ bởi một đội ngũ lao động có tay nghề cao và trình độ hiểu biết kỹ thuật khả quan như Ấn Độ đã làm ở Bangalore hoặc Ái Nhĩ Lan đã làm ở Dublin. Đó là nói về những việc phải làm có tính cách thuần túy kinh tế.

Tuy nhiên nếu muốn đất nước có thể cất cánh nhanh chóng thì những biện pháp kinh tế nói trên phải được lồng vào trong khung cảnh một chế độ chính trị dân chủ cởi mở. Đây là thời điểm Việt Nam phải cắt đứt mọi vấn vương với cái chủ nghĩa Marx không tưởng, và cương quyết vứt bỏ cái “kinh tế thị trường với định hướng xã hôi chủ nghiã” nhà quê và ấu trĩ.

Trận đồ quốc tế như trên mô tả, đã sắp xếp và an bài để tạo điều kiện cho mọi quốc gia cùng phát triển và chung sống hòa bình dưới mái nhà toàn cầu duy nhất. Thời Minh Trị Thiên Hoàng, Nhật Bản chỉ cần có 10.000 chuyên gia huấn luyện từ nước ngoài đã có thể canh tân và tiến lên địa vị cường quốc của thế giới hôm nay. Nước Việt Nam giờ đây, với 300.000 chuyên gia hượng thặng đang sinh sống tại nước ngoài, chẳng lẽ lại không chuyển đổi được cảnh nghèo đói triền miên của dân tộc thành tình trạng phú cường như các “con rồng, con hổ” Đông Á hay sao ? Nếu biết nhân lực là vốn qúy thì tại sao lại đặt quyền lợi riêng tư của phe nhóm lên trên quyền lợi quốc gia dân tộc và lơ là với cái kho tàng nhân lực qúy báu đó ?

Tất cả chỉ còn là quyết định. Một quyết định dân chủ sáng suốt và can đảm sẽ nhanh chóng đưa dân tộc vào vùng thịnh vượng chan hòa ánh bình minh ấm áp của thiên niên kỷ mới qua sang. Một quyết định u tối sai lầm trái lại sẽ đưa tới những hậu quả tai hại không thể lường trước được đối với những cá nhân hiện đang có trách nhiệm với lịch sử giống nòi. Dân tộc cũng như nhân loại hiện đã mất hết kiên nhẫn trước thái độ ù lỳ và lạc hậu của những cá nhân lãnh đạo không biết tự điều chỉnh mình với su thế tất yếu của loài người.

Theo Việt Thức

Posted in Chinh Tri Xa Hoi | Leave a Comment »

►Ai là kẻ thù của Việt Nam?

Posted by hoangtran204 trên 28/03/2015

Nguyễn Hưng Quốc

Ở Việt Nam lâu nay, giới cầm quyền cũng như giới truyền thông hay nói đến những “thế lực thù địch”. Không ai giải thích rõ, nhưng hầu như mọi người đều biết, với nhóm từ ấy, người ta nhắm đến các quốc gia Tây phương, đặc biệt là Mỹ, trong cái gọi là âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm làm thay đổi chế độ tại Việt Nam.

Tuy nhiên, chỉ cần bình tĩnh và sáng suốt một tí, người ta sẽ thấy ngay là Mỹ không có lý do gì để trở thành “thù địch” với Việt Nam. Cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam (miền Bắc) đã chấm dứt từ 40 năm trước. Cuộc chiến tranh lạnh, nguyên nhân làm bùng nổ chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ, cũng đã chấm dứt cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào đầu thập niên 1990. Với Mỹ, một trong những nguyên tắc nền tảng của mọi chính sách đối ngoại là không có bạn cũng như không có kẻ thù vĩnh viễn. Bạn hay thù tùy thuộc vào lợi ích quốc gia, nghĩa là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh. Hoàn cảnh hiện nay là Mỹ muốn làm bạn với Việt Nam. Có hai lý do chính: Một, Mỹ muốn tăng cường hợp tác kinh tế với Việt Nam để làm ăn; và hai, Mỹ cần Việt Nam để bảo vệ Biển Đông, một trong những con đường hàng hải tấp nập và quan trọng nhất trên thế giới.

Trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ hay nhấn mạnh đến yếu tố nhân quyền như một trong những điều kiện để hợp tác. Điều đó khá dễ hiểu. Một, đó là một trong những nguyên tắc căn bản trong các chính sách ngoại giao của Mỹ: để làm bạn, cả hai nước phải chia sẻ với nhau một bảng giá trị chung. Cốt lõi của bảng giá trị ấy là tôn trọng quyền làm người. Hai, riêng với Việt Nam, Mỹ lại càng cần nêu lên nguyên tắc ấy chủ yếu để đáp ứng lại sự đòi hỏi của một bộ phận khá đông dân chúng Mỹ. Ở trên, tôi có nói với Mỹ, không có kẻ thù vĩnh viễn. Đó là về phía chính phủ. Với dân chúng thì khác. Những người từng tham gia vào chiến tranh Việt Nam cũng như thân nhân của những người đã từng bị hy sinh tại Việt Nam không dễ gì quên hẳn được quá khứ. Đó là chưa kể cộng đồng người Việt khá đông đảo tại Mỹ. Tất cả đều yêu sách chính phủ Mỹ cần đặt ra những điều kiện nào đó khi muốn đẩy mạnh quá trình hợp tác với Việt Nam. Tuy nhiên, nên lưu ý: nhân quyền là điều kiện nhưng không phải là điều kiện tiên quyết. Trên thực tế, lâu nay, chính phủ Mỹ vẫn hợp tác với khá nhiều chế độ độc tài nếu họ thấy sự hợp tác ấy là cần thiết và có lợi.

Bởi vậy, có thể nói với Việt Nam, Mỹ sẽ không đẩy yêu sách dân chủ hoá trong chừng mực mối quan hệ giữa hai nước tốt đẹp đủ để bảo vệ những lợi ích chung. Cái gọi là âm mưu “diễn biến hoà bình” của Mỹ, nếu có, chỉ có một ý nghĩa rất tương đối trong cái gọi là chủ nghĩa thực tiễn (realism) của những nhà hoạch định chính sách tại Mỹ. Đó là chưa kể, để bảo vệ các lợi ích của họ, điều Mỹ cần nhất ở Việt Nam là sự ổn định về chính trị. Điều đó lại cũng dễ hiểu. Không ai có thể an tâm làm ăn buôn bán cũng như bàn chuyện hợp tác chiến lược ở những nơi thường xuyên thay đổi chính phủ cả. Ở điểm này, chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam rất gần nhau: mọi người đều muốn ổn định dù cái giá để trả cho sự ổn định, về phía dân chúng, là cái ách độc tài nặng trĩu trên lưng của họ.

Nếu Mỹ không phải là lực lượng thù địch của Việt Nam thì là ai?

Câu trả lời hầu như ai cũng rõ: Trung Quốc. Chỉ có thể là Trung Quốc. Chứ không có bất cứ ai khác.

Nói đến âm mưu xâm lấn của Trung Quốc, nhiều người nghĩ đến viễn cảnh Trung Quốc tấn công trên đất liền. Tôi nghĩ viễn cảnh ấy sẽ không xảy ra. Trung Quốc không phiêu lưu một cách dại dột như thế. Bởi chọn thế trận như vậy là phải đối diện với cuộc chiến toàn dân của Việt Nam. Có chiếm cũng không giữ được đất. Vả lại, Trung Quốc cũng không cần chiếm Việt Nam khi họ có thể tác động dễ dàng lên guồng máy lãnh đạo Việt Nam để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị của họ.

Cuộc xâm lấn của Trung Quốc chỉ diễn ra trên biển

Nói đến âm mưu xâm chiếm trên biển của Trung Quốc, phần lớn chỉ để ý đến các sự kiện cụ thể như vụ cắt dây cáp ngầm của Việt Nam, việc đem giàn khoan HD-981 đến thềm lục địa Việt Nam, việc cải tạo bãi đá Gạc-Ma hay việc bắt bớ các ngư dân Việt Nam đang đánh cá gần Hoàng Sa hay Trường Sa. Chỉ chú ý đến các sự kiện ấy nên người Việt Nam dễ thấy thỏa mãn khi một số khó khăn đã được giải quyết: dây cáp ngầm được nối, giàn khoan được rút về nước hay những ngư dân bị bắt được thả. Có lẽ nghĩ như thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho là Việt Nam đã “thắng lợi” trong cuộc đương đầu với giàn khoan HD-981 hồi đầu năm ngoái. Thật ra, đó chỉ là những sự kiện lặt vặt. Âm mưu thực sự của Trung Quốc lớn hơn nhiều: làm chủ hơn 90% diện tích Biển Đông của Việt Nam.

Mà Trung Quốc không hề giấu giếm điều đó. Bằng hành động cũng như bằng lời nói, lúc nào họ cũng cho Biển Đông là “sân nhà” của họ, là “lợi ích cốt lõi” mà họ không thể từ bỏ hay nhân nhượng. Có thể hình dung chiến lược xâm lấn Biển Đông của Trung Quốc được bao gồm ba giai đoạn: một, tuyên bố con đường lưỡi bò (hoặc con đường gồm chín khúc); hai, tuyên bố vùng nhận dạng hàng không trên trời tương ứng với con đường lưỡi bò dưới biển; và ba, thực hiện việc kiểm soát ngặt nghèo cả trên trời lẫn dưới biển để bất cứ một chiếc thuyền hay một chiếc máy bay nào đi ngang qua con đường lưỡi bò ấy cũng đều phải xin phép Trung Quốc và chịu sự kiểm tra của Trung Quốc. Xong giai đoạn thứ ba, cuộc xâm lấn của Trung Quốc coi như kết thúc.

Khi cuộc xâm lấn ấy kết thúc, nước nào bị thiệt hại nhiều nhất? Câu trả lời rất đơn giản: Việt Nam. Brunei nhiều lần tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa nhưng họ chưa bao giờ thực sự làm chủ bất cứ hòn đảo hay bãi đá nào. Chỉ thực sự làm chủ một số đảo hay bãi đá ở Trường Sa và Hoàng Sa là Philippines, Đài Loan, Malaysia và Việt Nam. Trong số các quốc gia ấy, nước làm chủ nhiều nhất là Việt Nam. Do đó, nếu Biển Đông mất, Việt Nam cũng sẽ là nước bị mất mát nhiều nhất. Hơn nữa, ngoài đảo, còn có vùng biển. Nếu con đường lưỡi bò của Trung Quốc được xác lập chính thức, Việt Nam sẽ mất khoảng 90% chủ quyền trên Biển Đông.

Mất 90% cũng có nghĩa là mất trắng Biển Đông.

Tất cả những sự phân tích đều không có gì mới mẻ. Hầu như ai cũng biết trừ… chính quyền Việt Nam.

—–

Nguyễn Hưng Quốc Tác giả đã quên rằng TQ đã xâm nhập vào Kampuchia và Lào từ 1992. Hiện có ít nhất 1 triệu dân TQ đang sống ở Lào và Kampuchia. TQ cũng đã đầu tư 500 triệu đô la để mở rộng cảng Sihanoukville (ngang với mũi Cà Mau) và xây dựng toàn bộ đường sá và cầu cống cho Kampuchia và hơn 10 năm qua, TQ cũng đã viện trợ hơn 1/2 ngân sách hàng năm cho Kapuchia và Lào.

Thêm vào đó, đảng CSVN và 200 ủy viên trung ương đảng hiện nay đã và đang tìm đủ mọi cách để cho Trung Cộng thuê đất đai ở VN, hợp đồng lên tới 50-99 năm trong 18 tỉnh ở VN.

Posted in Chinh Tri Xa Hoi | Leave a Comment »

►Hiện trường tai nạn ở Công ty Formosa (Hà Tỉnh): Dưới giàn dáo là đường hầm…chạy ra biển

Posted by hoangtran204 trên 27/03/2015

Thôi chết rồi. Người VN nuôi ong tay áo; xưa nay hậu thuẩn cho bác và đảng làm cách mạng giải phóng. Nay đảng CSVN tức Hùng, Dũng Sang, Trong cho Trung Cộng thuê cảng Vũng Áng ở Hà Tỉnh, đây là khu vực thuộc Công ty Formosa. Công ty này tuy có văn phòng đóng ở Đài Loan, nhưng chủ của nó là Trung Quốc. Hiện có hơn 13.000 ông nhân Trung Quốc đang làm việc tại đây.

Ngoài ra, từ năm 2006 cho đến nay, Nguyễn Tấn Dũng và Bộ Chính Trị hiện nay còn cho Tập Đoàn Green của Trung Cộng thuê mướn 283.000 hecta đất trồng rừng ở 18 tỉnh Miền Bắc, với giá thuê là 185.000 đồng VN / 1 mẫu/ 1 năm (chưa bằng giá của 2 kg thịt heo).

Đảng xúi Quốc Hội VN đã làm luật cho nước ngoài thuê đất 50-99 năm, và dựa theo đó để cho TQ thuê đất đai dài hạn. Thật ra là trả nợ cho Trung Cộng chứ thuê mướn kiểu gì mà 10.000 mét vuông giá cho thuê chỉ chưa tới 10 đô la/1 năm.

Từ 1993 đến nay, TQ đã cho dân TQ di cư vào sinh sống ở Lào và Kampuchea (có hơn 3000 doanh nghiệp TQ ở Kampuchia tính đến năm 2008). Vậy là sườn phía Tây của VN đã bị TQ bao vây. Phía Biển Đông cũng bị bao vây. Hà Tỉnh thì có hơn 13.000 công nhân TQ đang đào hầm xây lũy cao hào sâu. Lúc này thì 200 ủy viên trung ương đảng CSVN đang bận giành nhau chức vụ trong kỳ đại hội đảng 2016. TQ tha hồ xúc tiến việc lấn chiếm vào sâu trong các tỉnh của VN. Trung Cộng đã có hàng ngàn dân (quân) ở Đà Nẵng (Cà Ná), Bình Dương (Đông Đô Đại Phố)…Chiến tranh với TQ sẽ không còn xa.

Các bạn ghé vào đây đọc thêm chi tiết các vụ cho Trung Cộng thuê mướn đất đai của đảng CSVN.

 

 

HÀ TĨNH, NGƯỜI DÂN LẠI THÍ MẠNG và NGHI VẤN VỀ MỘT ĐƯỜNG HẦM NGẦM Ở FORMOSA

26-3-2015

Tin dữ từ Hà Tĩnh: Một nguồn tin cho biết đã có 18 người chết và rất nhiều người bị thương tràn ngập bệnh viện Kỳ Anh và Bv Đa Khoa Hà Tĩnh do sự cố giàn giáo đổ sập tối qua 25/3/2015.

Điều cần nói, là hệ thống giàn giáo cao 30m, lại thi công ban đêm mà khi có hiện tượng rung lắc, vẫn buộc công nhân phải làm việc. Vậy thì đây không thể là sự cố vô tình. Ai chịu trách nhiệm này?

– Thông thường, trên bất cứ công trình xây dựng, công ty nào cũng có Ban An toàn Lao động, vậy ở Vũng Áng có hệ thống An Toàn Lao Động hay không mà để sự cố chết hàng loạt người dân như vậy? Ai chịu trách nhiệm trước tính mạng của người dân?

– Số lượng người chết và bị thương hiện là bao nhiêu? Con người không thể đếm như đếm cá, nên đến giờ này một số báo ghi là 13, báo thì ghi 14, thậm chí tờ báo Chính phủ còn đăng tin lãnh đạo Hà Tĩnh phát biểu rất coi rẻ mạng sống người dân là “hơn 10 người chết”? Hơn 10 là bao nhiêu? Là 10 người rưỡi hay 10,7 người? Đó là sự coi rẻ mạng sống của người dân.

Còn nhớ, con số thương vong trong vùng Vũng Áng này đã bị giảm đi gấp 3 lần trong vụ Bạo lực hồi tháng 5 năm ngoái. Hồi đó, số người Trung Quốc chết là 3 người (được tiết lộ khi đưa vụ án phá hoại ra xử), nhưng báo chí chỉnh thức và quan chức Hà Tĩnh chỉ thông báo có 1. Vậy về con số là đáng tin 1/3.

Cuối cùng, là ai chịu trách nhiệm và trách nhiệm đến đâu?
Hay cứ thằng dân nào ngu và đen đủi thì cứ…. chết?

Cũng từ lâu, dân tình đồn đại về một đường hầm bí mật dưới lòng đất ở Formosa, vì vị trí này cách Hải Nam một đoạn ngắn nhất.
Và sau vụ tai nạn này, thì đường hầm đã dần lộ rõ.
Nó là đường gì? Để làm gì?

JB Nguyễn Hữu Vinh

JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.

Những đường hầm nghi vấn!
Trong Khu Vũng Áng, tập đoàn Formosa từ lâu là khu gần như biệt lập với nhiều lời đồn đoán. Xung quanh là hào sâu 10m, rộng 10m, phía trong là hàng rào chắn, xâm nhập là bất khả. Lời đồn rằng có những đường hầm bê tông từ đất liền ra biển.

Trong đó, có đường hầm thải từ lò cao đổ ra biển, và một đường hầm sâu mà thi công phải dùng nhiều máy bơm áp lực lớn để hút nước mới thi công được…
Những thông tin là vậy nhưng chưa có dịp để kiểm chứng.
Tuy nhiên, một số người đã khẳng định là có những đường hầm này.
Nó dùng để làm gì?

Nếu đường hầm thải ra biển, thì biển Việt Nam liệu có tồn tại được với những chất thải đổ xuống biển từ khu CN lớn này không?
Nếu đường hầm bê tông sâu dưới biển còn lại mà không dùng để thải thì nó có mục đích gì?

Với một khu trọng yếu, Vũng Áng gần như đối diện Hải Nam và là vị trí cắt ngang đất nước được cho thuê với thời gian 70 năm (gần 4 đời người). Nhiều vấn đề phải được đặt ra những câu hỏi.
Nhưng, ai có thể trả lời?

JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
JB Nguyễn Hữu Vinh's photo.
—-

Từ 1990 cho đến nay, Trung Quốc đã và đang viện trợ Kamphuchia và Lào. Dân TQ di dân qua sống ở 2 quốc gia này có hơn 300.000 người ở mỗi nước. Đảng CSVN và nhà nước cho Trung Quốc thuê cảng Vũng Áng 50 năm. Trung Quốc xây tường cao 10, hào sâu 10 mét ở khu vực Vũng Áng. 13.

 

26-3-2015

PHÁT HIỆN ĐƯỜNG HẦM BÍ MẬT DÀI 50 MÉT TẠI FORMOSA VŨNG ÁNG, HÀ TĨNH

Tai nạn giàn giáo sập tại khu kinh tế Vũng Áng hôm nay làm tử vong 14 và bị thương 30 Công Nhân Việt Nam.

Chuyện bất ngờ là nhờ sập giàn giáo, làm lộ một đường hầm bí mật! Công Nhân cho biết ĐƯỜNG HẦM BÍ MẬT rộng gần 2 mét chiều ngang, sâu 2 mét và dài 50 mét chạy ra cửa biển. (báo đã xóa phần tin nầy)

Theo Thùy Trang nghĩ thì đây có thể là đường hầm bí mật để Trung Quốc đổ bộ lính và đưa vũ khí qua ngã Vũng Áng để cắt đứt Hã Tĩnh và Hà Nội khi có chiến tranh xảy ra. Hiện nay nhân công Trung Quốc (Có thể là lính) ở Vũng Áng là 13.426 người !

Bạn nghĩ gì? Âm Mưu Hội Nghị Thành Đô? – Chính quyền CSVN sẽ nói gì về điều nầy?

Nguyễn Thùy Trang

'PHÁT HIỆN ĐƯỜNG HẦM BÍ MẬT DÀI 50 MÉT TẠI FORMOSA VŨNG ÁNG, HÀ TĨNH </p><br /><br /><br /><br />
<p>Tai nạn giàn giáo sập tại khu kinh tế Vũng Áng hôm nay làm tử vong 14 và bị thương 30 Công Nhân Việt Nam. </p><br /><br /><br /><br />
<p>Chuyện bất ngờ là nhờ sập giàn giáo, làm lộ một đường hầm bí mật! Công Nhân cho biết ĐƯỜNG HẦM BÍ MẬT rộng gần 2 mét chiều ngang, sâu 2 mét và dài 50 mét chạy ra cửa biển. (báo đã xóa phần tin nầy)</p><br /><br /><br /><br />
<p>Theo Thùy Trang nghĩ thì đây có thể là đường hầm bí mật để Trung Quốc đổ bộ lính và đưa vũ khí qua ngã Vũng Áng để cắt đứt Hã Tĩnh và Hà Nội khi có chiến tranh xảy ra. Hiện nay nhân công Trung Quốc (Có thể là lính) ở Vũng Áng là 13.426 người !</p><br /><br /><br /><br />
<p>Bạn nghĩ gì? Âm Mưu Hội Nghị Thành Đô? - Chính quyền CSVN sẽ nói gì về điều nầy? </p><br /><br /><br /><br />
<p>Nguyễn Thùy Trang'

Campuchia công khai ủng hộ lập trường của Trung Quốc ở Biển Đông

26-3-2015

VOA

Thủ tướng Campuchia (phải) bênh vực lập trường của giới lãnh đạo Campuchia khi đảm nhận vai trò chủ tịch luân phiên của ASEAN trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.

Thủ tướng Campuchia (phải) bênh vực lập trường của giới lãnh đạo Campuchia khi đảm nhận vai trò chủ tịch luân phiên của ASEAN trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.

Nhà lãnh đạo của Campuchia đã công khai ủng hộ lập trường của Trung Quốc cho rằng tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông không thể được giải quyết thông qua Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Tại Phnom Penh, Thủ tướng Hun Sen hôm thứ Tư phát biểu rằng những nước có ảnh hưởng trực tiếp nên giải quyết vấn đề này với nhau.

“Xét cho cùng thì đây không phải là vấn đề đối với toàn thể khối ASEAN. Đó là vấn đề song phương giữa các nước có liên quan, họ cần phải nói chuyện với nhau,” ông Hun Sen nói.

Bắc Kinh đã nói họ sẽ chỉ đàm phán tranh chấp lãnh thổ với từng nước một và đã từ chối bất kỳ kênh đa phương nào để giải quyết.

Nhưng Philippines và Việt Nam, hai thành viên của ASEAN, vẫn đang thúc đẩy một phương sách mang tính khu vực và đa phương đối với vấn đề này.

Mặc dù đây là lần đầu tiên lãnh đạo Campuchia tuyên bố một cách rõ ràng lập trường của mình về tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông, Phnom Penh đã bị chỉ trích về cách thức xử lý vấn đề này khi họ giữ chức chủ tịch ASEAN vào năm 2012.

Nhắc tới vai trò chủ tịch luân phiên của ASEAN, Thủ tướng Hun Sen bênh vực lập trường của giới lãnh đạo của Campuchia:

“Sau Campuchia, Brunei cũng không tìm được một giải pháp, Myanmar cũng thất bại. Bây giờ tôi đang đợi xem liệu Malaysia sẽ có thể giải quyết vấn đề này được hay không. Tôi có thể nói là việc này không thể nào làm được. Nhưng họ chỉ đổ lỗi cho Campuchia, chỉ có Campuchia là sai. Tôi sẽ đợi xem hết toàn đợt luân phiên.”

Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 2012, các nhà lãnh đạo khu vực đã không thể đưa ra được một tuyên bố chung. Những người chỉ trích nói rằng việc này là do Campuchia bảo vệ lập trường của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.

Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á bao gồm Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, và Việt Nam. Ngoài Việt Nam và Philippines, Malaysia và Brunei cũng có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc.

Indonesia bác bỏ tuyên bố đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc

https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=i-XzAwtZrZw

 

——

 

Posted in Bán Tài Nguyên Khoa'ng Sản- Cho Nước Ngoài Thuê Đất 50 năm, Chiến lược xâm nhập của Trung Quốc vào Viet Nam | Leave a Comment »

►40 năm nhìn lại: Kết thúc một quá trình, một cuộc chiến

Posted by hoangtran204 trên 27/03/2015

Blog VOA

Thiện Ý

26-03-2015

H1Thảm cảnh bắt đầu từ vụ Buôn Mê Thuột thất thủ (10-3-1975), tiếp đến là quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bỏ ngỏ Cao nguyên, di tản chiến thuật. Thế là quân dân các vùng di tản bị rơi vào hỗn loạn. Nhiều quân nhân bỏ ngũ chạy về lo cho gia đình di tản. Những người dân thường cũng rời bỏ cửa nhà, ruộng vườn, tài sản tháo chạy về phía tự do như dòng thác đổ. Người ta ghi nhận có đến nửa triệu quân dân Cao nguyên di tản về Nha Trang, phòng tuyến cuối cùng của Quân Đoàn II, Quân Khu II.

Trong khi đó ở Huế, quân dân rút về Đà Nẵng, rồi tranh nhau tìm đường ra biển. Một số khác theo đường bộ tháo chạy về phía Nam như một “Đại lộ kinh hoàng. Vì trên đại lộ ấy, nhiều cảnh đau lòng đã diễn ra. Người ta đã phải chứng kiến cảnh tranh sống sát hại nhau, nạn thổ phỉ cướp bóc, hãm hiếp công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Mọi giá trị nhân bản, đạo đức bị chà đạp; tình huynh đệ chi binh, nghĩa đồng bào trở thành xa lạ trong cuộc “rút lui chiến thuật” đầy hỗn loạn này. Thảm cảnh tương tựcũng diễn ra ở nhiều tuyến “rút lui chiến thuật” khác trên các nẻo đường đất nước. Mọi người tháo chạy về phía tự do, vì lúc ấy có lời đồn đãi rằng “Đã có thương lượng cho CSBV một nửa lãnh thổ VNCH mà không chống cự. . .”

Quả thực đến đầu Tháng 4 năm 1975, một nửa lãnh thổ VNCH đã bõ ngỏ cho Cộng quân đến tiếp quản. Tốc độ rút quân quá nhanh đến độ đối phương không kịp tiếp thu, không đủ người và thực ra cũng không cần đủ người để giữ đất. Trong vòng vài tuần, 150.000 binh sĩ VNCH đã tự hủy và mất khả năng chiến đấu. Thế quân bình chiến lược hoàn toàn bị đảo ngược.

Chế độ VNCH lâm nguy! Mặc dầu thực tế diễn ra đúng với ý muốn của Hoa Kỳ, nhưng Tổng thống Gerald Ford lúc đó vẫn làm ra vẻ quan tâm đến việc cứu vớt số phận đã được an bài của VNCH. Ông Ford đã đề nghị một ngân khoản viện trợ quân sự bổ sung 700 triệu Mỹ kim để trang bị và lập cầu không vận khẩn cấp chuyển đồ tiếp tế cho Quân Lực VNCH. (Thật sự là số viện trợ 700 triệu này là không có, Quốc Hội Mỹ đã chận lại từ đầu năm 1975. Khi VNCH yêu cầu viện trợ quân sự tương đương 300 triệu đô la, thì cũng đã bị Quốc Hội Mỹ bác bỏ vào đầu tháng 3/1975; lúc này, Quân Đội VNCH chỉ còn đủ đạn dược và xăng để chiến đấu trong 2 tuần lễ)

Thực tế lúc đó là, ông Bùi Diễm, Đại sứ VNCH tại Mỹ, đã từ Washington trở về tuyên bố một cách tuyệt vọng, rằng “Không còn hy vọng gì về phía Mỹ nữa, chúng ta phải tính đến các điều kiện thực tế. . .”.

Theo đánh giá của một nhân viên cao cấp CIA có mặt vào những giờ phút hấp hối của chế độ VNCH thì “Lúc này, để bảo vệ Sàigòn quân Nam Việt đang tơi tả, chỉ còn tương đương sáu sư đòan, đương đầu với 18 sư đòan quân Bắc Việt, một đa số áp đảo. Điều mà Nam Việt Nam hy vọng thực hiện là lập một phòng tuyến án ngự cuối cùng chậy từ một phần đất Cao nguyên xuống tới bờ biển Miền Trung, xuyên ngang thị trấn Xuân Lộc. . .”

Thế nhưng tình hình ngày càng nguy kịch. Trong lúc lâm nguy người ta lại nói nhiều đến giải pháp được Mỹ khuyến khích từ lâu, là thương lượng với CS để thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần. Đây cũng là giải pháp từng được qui định trong Hiệp định Genève 1954, nhưng đã không được các bên thực hiện. Đó cũng là giải pháp bị bác bỏ năm 1965 vì đường lối chiến tranh đã được lựa chọn. Nay một lần nữa giải pháp được chọn lựa trong Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam năm 1973.

Thực ra, đây là một giải pháp chỉ có giá trị pháp lý trên văn bản, thực tế thâm tâm người Mỹ không muốn nó được thực hiện, vì họ không còn muốn dính líu thêm nữa mà chỉ muốn cắt bỏ chế độ VNCH càng sớm càng tốt. Vì rằng, để cho chế độ này tồn tại dưới bất cứ hình thức nào đều làm cản trở tiến trình đi vào thế chiến lược quốc tế mới của Mỹ.

Điều này cũng phù hợp với tham vọng của CSBV, không muốn thương lượng trong điếu kiện hiện lại quá thuận lợi, mà chỉ cần ông Thiệu bị lật đổ bằng chính người của ông ta. Họ muốn chế độ VNCH sụp đổ trước khi họ đến tiếp quản mà không phải tàn phá giết chóc nhiều. Họ muốn một sự sụp đổ từ từ để còn cho họ nguyên vẹn những chiến lợi phẩm, đúng ra là mọi tài sản của chế độ bị sụp đổ không do sức mạnh chiến đấu của họ.

Đúng như Hà Nội mong muốn, ông Thiệu đã phải từ chức (21-4-1975) trước áp lực quần chúng và các phe phái tranh dành quyền lực dưới sự đạo diễn của CIA; bằng một bài diễn văn gay gắt ông Thiệu đã tố cáo muộn màng sự phản bội của Mỹ: “Họ bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với với một nước đồng minh nhỏ. . .”.

Ngày 26 tháng 4 năm 1975, nghĩa là năm ngày sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Quốc hội Sài Gòn thông báo người được Tổng Thống Thiệu chỉ định thay thế ông (theo Hiến Pháp VNCH) là Phó Tổng thống Trần Văn Hương, nay được Quốc Hội ủy nhiệm quyền tuyển chọn một người thay thế ông trong chức vụ Tổng thống VNCH.

Trên cơ sở thông báo này, quyền Tổng thống Trần Văn Hương đã chỉ định Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng thống VNCH (ngòai dự liệu của Hiến pháp VNCH). Ngày 28-4-1975, Tướng Minh nhậm chức, cử Giáo sư Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng, đứng ra thành lập chính phủ hòa giải, thay thế chính phủ chống cộng cuối cùng của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trước đó một tuần.

Như vậy là Tướng Dương Văn Minh, người hùng của cuộc đảo chánh năm 1963, đưa đến sự cáo chung nền Đệ nhất VNCH, nay lại được tuyển chọn làm nhiệm vụ khai tử nền Đệ Nhị VNCH mà chính ông đã góp phần tạo dựng lúc ban đầu.

Mặc dầu Tổng thống Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã cố gắng đơn phương giương cao ngọn cờ “Hoà giải và hòa hợp dân tộc”, với một số động tác mời chào giả tạo, như ra thông cáo đuổi hết người Mỹ ra khỏi Việt Nam trong vòng 48 giờ đồng hồ, quyết định thả hết các tù chính trị (tức tù Việt cộng).

Nhưng tất cả đều đã muộn, CSBV đã cảm thấy đang ở thế thượng phong, chẳng cần “hòa giải hòa hợp” với ai nữa.

Một ngày trước khi Sài Gòn rơi vào tay Hà Nội (29-4-1975), Đại sứ Mỹ cuối cùng Graham Martin đã bình tĩnh ngồi ở bàn làm việc trong Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn đợi Washington trả lời yêu cầu của ông xin gia hạn di tản. Nhưng từ Tòa Bạch Ốc đã ban ra lệnh cuối cùng: Tổng Thống Hoa Kỳ lệnh cho Đại sứ Martin phải rời đi bằng chiếc máy bay này”. Đó là chiếc trực thăng CH-46 mang tên “Lady Ace 09”.được gởi đến đón ông Martin.

Như vậy là cuộc chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt với thái độ phủi tay của Hoa Kỳ, người khởi đầu và cũng là người kết thúc sinh mạng một chế độ công cụ của mình. Michael Maclear, một nhà báo Mỹ trong cuốn Việt Nam, cuộc chiến tranh mười nghìn ngày đã ghi lại cảm tưởng của Đại sứ Martin đối với cuộc chiến kết thúc là “thấy nhẹ cả người”. Đó là cuộc chiến tranh chưa bao giờ được chính thức gọi là chiến tranh, dù nó là cuộc chiến tranh dài nhất (cho đến lúc ấy 1975) của Mỹ đã chấm dứt. Nó là “một cuộc xung đột”, “một sự dính líu”, “một kinh nghiệm” và thất bại của nó sẽ được các sử gia có thể phán xét sau này, không còn là mối bận tâm của nhân dân Hoa Kỳ.

Rất đơn giản, họ nghĩ là họ đã chiến đấu, hoặc người của họ đã chiến đấu, thế là đủ. Từ hai năm về trước (1973), họ đã thực hiện được một nền hòa bình cho họ tại Việt Nam. Hầu hết người Mỹ đã cảm thấy “một nền hòa bình trong danh dự” đã đạt được như người ta bảo. Giờ đây, họ đang nhìn với vẻ bàng quan chán ngắt, có đôi chút sửng sốt, song sự thật không phải hoàn toàn bị bất ngờ. Tám năm chiến đấu của Mỹ (1965-1973), chỉ trong vài tuần đã trở thành vô nghĩa.

Vô nghĩa ư? Thực ra, cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế chỉ có thể là vô nghĩa và vô ích với nhân dân Mỹ, khi mà họ đã phải gánh chịu mọi chi phí cho cuộc chiến, với cái giá máu xương của 58.000 binh sĩ con em của họ phải bỏ mạng tại Việt Nam, mà vẫn không thực hiện được mục đích cao cả là giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ được chế độ dân chủ và phần đất tự do ở Miền Nam Việt Nam. Nhưng nó vẫn có ý nghĩa và lợi ích đối với chính quyền Mỹ, khi chiến tranh đã kết thúc vào lúc mà họ đã đạt được các mục tiêu chiến lược trong khu vực, mở ra một thời kỳ đầy triển vọng sau chiến tranh cho công cuộc làm ăn mới của giới tư bản Mỹ ở vùng này, trong khung cảnh một thế chiến lược toàn cầu mới.

Riêng đối với nhân dân Việt Nam, cuộc chiến tranh kéo dài trên 20 năm (1954-1975) kết thúc như thế thì quả là vô nghĩa và tàn hại. Và sự chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này, vừa là nỗi đau, vừa là niềm vui chung cho cả dân tộc Việt Nam. Là nỗi đau cho nhân dân Miền Bắc vì đã từng phải sống khổ cực, hy sinh xương máu chiến đấu cho một chiêu bài giả hiệu “Độc lập dân tộc, chống đế quốc, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước trong hòa bình, ấm no,tự do, hạnh phúc. . .”. Cũng là nỗi đau của nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ ở Miền Nam Việt Nam, vì đã ngay tình và nhiệt thành lao vào một cuộc chiến “bảo vệ chế độ tự do dân chủ”.

Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là cơ may mới cho đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm muốn giúp các nước nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết lập một nền trật tự thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới. Đó là chiến lược “Toàn cầu hóa” – Tòan cầu hóa về chính trị bằng một chế độ dân chủ và toàn cầu hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường tự do. Trong khung cảnh ấy, các quốc gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và các bên đều có lợi.

Như thế, chiều hướng mới xem ra có vẻ tốt đẹp. Nhưng chấm dứt cuộc chiến bằng sự triệt tiêu chế độ VNCH mới chỉ là bước thứ nhất của một quá trình đưa đất nước ta vào vận hội mới của một thế chiến lược quốc tế mới. Chúng ta còn phải trải qua bước thứ hai của quá trình này, là triệt tiêu chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) hiện nay. Vì chỉ sau đó, đất nước ta mới đi vào đúng quỹ đạo của một chiến lược quốc tế mới mà các cường quốc đã và đang nỗ lực thực hiện.

 Vậy thì, quá trình triệt tiêu chế độ CHXHCNVN đã và đang diễn ra như thế nào? Thực tế chúng ta đã, đang thấy và hãy tiếp tục chờ xem kết cuộc sẽ ra sao.

Posted in Chien Tranh Viet Nam, Chinh Tri Xa Hoi | Leave a Comment »

►Sân bay Tân Sơn Nhất: Sự thật về câu chuyện“Tắc Nghẽn Bầu Trời”, “Chồng Lấn Vùng Trời”, và “Khu vực cấm bay của Tp Hồ Chí Minh…”

Posted by hoangtran204 trên 27/03/2015

Dưới sự đỡ đầu của đồng chí X và các Soái Nga (đã làm thịt xong Cảng Sài Gòn) nay đang muốn cướp đoạt đất công ở khu vực Sân Tân Nhất và Long Thành để xây dựng khách sạn, các chung cư cao cấp, và cao ốc…cho thuê và bán cho nước ngoài,  Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng và đàn em đang ra sức chê Sân bay Tân Sơn Nhất nhỏ, bất tiện…Nhưng các mưu đồ gian trá của bọn này đã và đang bị nhiều nhà chuyên môn vạch mặt…

Sân bay Tân Sơn Nhất: Sự thật về câu chuyện“Tắc Nghẽn Bầu Trời”, “Chồng Lấn Vùng Trời”, và “Khu vực cấm bay của Tp Hồ Chí Minh”

TS Nguyễn Bách Phúc (*)

26-03-2015

Một lý do “nặng ký” mà Bộ giao thông vận tải đưa ra cho Dự án xây dựng sân bay Long Thành là “lỗi” của sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, việc mở rộng nâng công suất cảng hàng không này để đáp ứng nhu cầu 40-50 triệu hành khách/năm trong giai đoạn 2025-2030 là không khả thi”. Minh chứng điều này, Bộ đã đưa ra 4 cái lỗi.

Bài này xin bình luận lỗi thứ 2.

Về lỗi thứ 2, Bộ nói: “Hạn chế về khai thác vùng trời: Khu vực vùng trời tiếp cận dành cho tàu bay cất hạ cánh của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất hiện tại chồng lấn với vùng trời tiếp cận của căn cứ không quân Biên Hòa ở phía Bắc. Mặt khác, khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh nằm ngay phía Nam của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất nên đã hạn chế rất nhiều không gian sử dụng cho tàu bay cất hạ cất cánh, đặc biệt khi có hoạt động bay quân sự tại khu vực Tân Sơn Nhất và Biên Hòa.

Thứ trưởng GTVT Phạm Quý Tiêu phát biểu tại tọa đàm về dự án đầu tư sân bay Long Thành, do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 17/10. Thứ trưởng Phạm Quý Tiêu khẳng định lại việc cần thiết phải đầu tư xây dựng sân bay Long Thành, bởi Tân Sơn Nhất đã quá tải: “Sân bay Tân Sơn Nhất tắc nghẽn bầu trời, trong nhiều năm không quản lý được tĩnh không sân bay”.

Câu chuyện “TSN bị tắc nghẽn bầu trời”:

Nghe Bộ GTVT nói TSN “tắc nghẽn bầu trời”, chắc mọi người hình dung ra cảnh tượng cả đàn máy bay ùn tắc chen lấn nhau trước lối vào TSN, giống như xe Honda chen chúc trước đèn đỏ, giành nhau từng centimet đường!

Hàng trăm sân bay trên thế giới, số lượng hành khách nhiều hơn TSN, 80-100 triệu HK/năm, tần suất cất hạ cánh lên đến 60 chuyến/giờ hoặc hơn, đều không hề có khái niệm tắc nghẽn bầu trời, tại sao chỉ có bầu trời TSN bị tắc nghẽn khi tăng hơn 20 triệu HK/năm?

Thử tính xem mức độ tắc nghẽn của TSN như thế nào, liệu có bao nhiêu máy bay chen lấn nhau, chúng giành nhau bao nhiêu centimet không gian:

     + Tần suất lớn nhất hiện nay của TSN, theo Cục trưởng Cục Hàng không VN là 29 chuyến/giờ.

Với tần suất này, TSN có thể đưa đón tới 80 triệu hành khách/năm, chứ không phải chỉ hơn 20 triệu. (tham khảo bài “Có thể nâng Tân Sơn Nhất lên 80 triệu hành khách/năm, không cần giải phóng mặt bằng di dời dân cư, với tổng vốn đầu tư chỉ khoảng 3 tỷ USD)

     + Với tần suất 29 chuyến/giờ này thì số chuyến máy bay xếp hàng để cất cánh hoặc hạ cánh trong 1 giờ là: 29/2 = 14,5 chuyến.

     + Thời gian dãn cách giữa hai chuyến máy bay kế tiếp nhau là 1/14,5 = 0,07 giờ

     +Máy bay dân dụng hiện nay khi cất cánh hoặc hạ cánh thường bay với tốc độ 250 Km/giờ.

     + Tính ra cự li xếp hàng dọc giữa hai máy bay kế tiếp nhau là (250 Km/giờ) x (0,07 giờ) = 17,5 Km.

Hóa ra máy bay xếp hàng dọc trước cửa TSN, khi lên xuống cấp tập nhất, 2 chiếc liên tiếp nhau vẫn cách nhau hơn 17 Km, chứ không phải mấy centimet như honda trước đèn đỏ, sao lại gọi là tắc nghẽn bầu trời?

Câu chuyện “chồng lấn vùng trời với sân bay Quân sự Biên Hòa”:

  • TSN và Biên Hòa nằm cạnh nhau hơn nửa thế kỷ nay, chưa nghe ai nói “chồng lấn vùng trời”, kể cả những năm chiến tranh ác liệt, máy bay lên xuống “nhiều như chuồn chuồn”, cớ sao hôm nay lại đẻ ra việc “chồng lấn vùng trời”?
  • TSN cách Biên Hòa 25 Km, trong khi sân bay Changi của Singapore chỉ cách sân bay quân sự Paya Lebar 8 Km, nhưng không ai nói sân bay Changi của Singapore chồng lấn với sân bay quân sự Paya Lebar, cớ sao lại nói TSN chồng lấn với Biên Hòa?
  • Vùng trời tiếp cận cất hạ cánh, là vùng trời tiếp giáp với đường băng sân bay, với chiều dài 40 dặm (khoảng 72 Km), chiều rộng khoảng 9 Km, chiều cao dưới 3000 mét, là vùng trời được quốc tế quy định giao cho Trạm kiểm soát APP điều khiển không lưu, tức là APP hoàn toàn chịu trách nhiệm điều khiển các máy bay chuẩn bị hạ cánh hoặc sau khi cất cánh. Như vậy “Vùng trời tiếp cận cất hạ cánh” thực chất chỉ là một vùng quy ước, là vùng được kiểm soát chặt chẽ bởi APP chứ không phải là vùng cấm máy bay qua lại.

Ở Việt Nam có 3 Trạm APP, trong đó Trạm APP ở miền Nam, kiểm soát vùng trời tiếp cận của tất cả sân bay ở miền Nam. Hai sân bay ở gần nhau đều được một Trạm APP kiểm soát, nếu vùng tiếp cận có chồng lấn lên nhau đi nữa thì vẫn do cùng một Trạm APP kiểm soát, nên sẽ không có bất cứ phiền toái nào.

Ngoài ra, vùng trời tiếp cận của TSN nằm giữa 2 vùng trời tiếp cận của sân bay Biên Hòa và của sân bay Long Thành, khoảng cách từ vùng trời tiếp cận của TSN đến vùng trời tiếp cận của Long Thành gần hơn của Biên Hòa, cớ sao Bộ GTVT chỉ nói TSN và Biên Hòa chồng lấn, mà bỏ qua chồng lấn giữa TSN hiện hữu và Long Thành tương lai? Nếu sự chồng lấn này là thực sự nguy hiểm thì cớ sao Bộ lại chấp nhận sự nguy hiểm đó khi quyết định xây dựng sân bay Long Thành.

Câu chuyện “khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh”

Khi nghe Bộ GTVT nói như vậy, ai cũng ngỡ ngàng không biết khu vực cấm bay của TP.HCM là khu vực nào, rộng hẹp bao nhiêu, cấp nào ra quyết định cấm bay, cấm bay vì mục đích gì?

Chúng tôi may mắn được Cụ Lê Trọng Sành, Nguyên trưởng phòng Quản lý bay sân bay TSN giải thích cho như sau: Khi hạ cánh, những máy bay cỡ nhỏ với sức tự hãm trên đường băng tương đối kém nên Trạm APP phải “lựa theo chiều gió” để chọn cho những máy bay này hướng hạ cánh sao cho ngược với chiều gió. Chẳng hạn ở TSN máy bay thường xuyên hạ cánh theo chiều từ Đông sang Tây, nhưng đôi khi các máy bay nhỏ phải bay vòng vượt qua sân bay TSN rồi quay ngược lại để hạ cánh theo hướng từ Tây sang Đông. Với những máy bay nhỏ, vòng lượn này thường nhỏ,đoạn song song với đường băng thường cách đường băng 5 đến 7 km, sau khi máy bay vượt quá đường băng chừng 10 km thì sẽ quay vòng lại để hạ cánh. VÙng mặt đất được giới hạn bởi đường quay vòng hạ cánh tạm gọi là Vùng quay vòng hạ cánh.

Thông thường Vùng quay vòng hạ cánh nằm hai phía của sân bay. Với sân bay TSN là vùng phía Bắc và phía Nam, hiện tại vùng đất kế cận đường băng ở phía Nam là khu vực có rất nhiều nguy cơ cháy nổ, như kho chứa xăng máy bay, bãi đậu của hầu hết các loại máy bay, bãi đậu của máy bay trực thăng, đều là vùng nguy hiểm cháy nổ, nếu máy bay khi quay vòng bay trên vùng này có thể xuất hiện nguy cơ cháy nổ khi không may gặp sự cố. Vì vậy cơ quan Quản lý Hàng không VN quy định Vùng quay vòng hạ cánh phía Nam TSN là vùng cấm bay.

Như vậy, Bộ GTVT gọi vùng cấm bay này là “Vùng cấm bay của TP.HCM” là hoàn toàn không đúng, bởi vì TP.HCM không có vùng cấm bay nào cả.

Nhưng điều quan trọng nhất là, vùng cấm bay này không ảnh hưởng gì đến mật độ và lưu lượng lên xuống của máy bay ở sân bay TSN, không ảnh hưởng gì đến công suất của TSN, bởi một lẽ đơn giản rằng TSN vẫn còn vùng quay vòng ở phía Bắc không bị cấm, và giả sử một lúc nào đó, vùng quay vòng ở phía Bắc quá chật chội thì APP vẫn có thể cho phép máy bay quay vòng về phía Nam, chỉ cần nằm ngoài phạm vi cấm bay, tức là cách xa đường băng trên 7 Km.

Thật tình chúng tôi không thể nào hiểu nổi, tại sao Bộ GTVT lại trình Quốc hội rằng “khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh nằm ngay phía Nam của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất nên đã hạn chế rất nhiều không gian sử dụng cho tàu bay cất hạ cất cánh”?

____

(*) Tác giả: TS Nguyễn Bách Phúc là Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học công nghệ & Quản lý TP.HCM HASCON và là Viện trưởng Viện Điện – Điện tử – Tin học EEI

Nguồn anhbasam.wordpress.com

Posted in Cướp Đất Đai | Leave a Comment »

►Lý Quang Diệu và Phạm Văn Đồng

Posted by hoangtran204 trên 27/03/2015

Lý Quang Diệu và Phạm Văn Đồng

26-3-2015

 

Thế là ông Lý Quang Diệu đã về cõi vĩnh hằng ở tuổi 91. Đã có rất nhiều bài báo viết về cuộc đời và sự nghiệp to lớn của ông, những gì chúng ta viết có nguy cơ cao bị rơi vào sự thừa thải. Nhưng viết về ông dựa trên cái nhìn của VN thì chắc không thừa. Ông Lý Quang Diệu làm thủ tướng Singapore khoảng 31 năm. Ông Phạm Văn Đồng cũng làm thủ tướng [một phần và sau này toàn phần VN] được 32 năm. Nhưng hai người để lại những di sản rất khác nhau.

Ông Lý đúng là một kiến quốc sư thật sự. Ông “hoán chuyển” một làng chài chỉ độ 100 dân nghèo khó và không có tài nguyên thành một quốc đảo giàu có, một trung tâm thương mại và trung chuyển quốc tế. Ông cầm lái “con thuyền Singapore” đi từ nghèo đói đến thịnh vượng, sang chế độ dân chủ [dù chỉ nửa vời], đến toàn cầu hoá. Ông không bao giờ tự xưng là “cha gia dân tộc”, nhưng người dân Singapore xem ông như là một cha đẻ của Singapore hiện đại. Ông ra đi và để lại một Singapore đầy tự tin, xán lạn. Trên trường quốc tế, ông được hầu như tất cả các lãnh tụ quốc gia xem như là một “statesman” – chính khách. Người ta ca ngợi ông là người có viễn kiến sáng suốt, về tính quyết đoán, về cách nói trực tiếp và trong sáng, về trí thông minh, và tính dí dỏm của một người có học. Ông còn để lại những câu phát ngôn trứ danh, những phát ngôn mà thế giới sẽ còn nghiền ngẫm trong tương lai.

Ông Phạm Văn Đồng sau hơn 30 năm làm thủ tướng và khi ra đi chẳng để lại một di sản gì đáng để xưng tụng. Suốt 30 năm làm thủ tướng hình như ông chẳng có dấu ấn gì đáng nói. Nước VN do ông lãnh đạo từ nghèo đói vẫn hoàn nghèo đói. Ông để lại cái văn bản ngoại giao đầy tai tiếng và có thể nói là sẽ làm nhơ danh ông rất rất lâu. Ông chỉ được tiếng là người trong sạch và giản dị. Nhưng ông chẳng có những phát ngôn gì để có thể xem là “wisdom” (khôn ngoan).

Về qui mô, nói cho cùng, tôi nghĩ ông Lý là người chỉ tương đương với vai trò của một thị trưởng mà thôi. Nên nhớ rằng trong quá khứ, ông Lý Quang Diệu từng bị báo chí Nhà nước Việt Nam chửi như tát nước. Ông được cho đội đủ thứ “nón”: nào là tay sai đế quốc, là chống cộng, là chống nhân dân Việt Nam.

Thế nhưng đùng một cái, Việt Nam “mặn nồng” với ông Lý Quang Diệu. Ông Võ Văn Kiệt từng mời ông Diệu làm cố vấn và cộng tác. Nhưng ông Lý từ chối, và nói rằng nếu không có Mĩ gật đầu thì VN vô phương phát triển. Ông Lý nói rằng Mĩ là chìa khoá, Mĩ là động cơ để phát triển. Ngay cả Tàu cũng phải ôm lấy Mĩ mà phát triển, thì VN không nên xem thường Mĩ.

Mà, ông cho ý kiến rất thành thật. Có thể nói ông Lý là một “fan” của Việt Nam, nhưng không phải là fan của giới lãnh đạo VN. Ông Lý khen người Việt Nam thông minh, học hành giỏi, và khi ra nước ngoài thường thành công. Ông tiếc nuối rằng đáng lẽ VN phải là số 1 của Đông Nam Á, hay thậm chí hàng đầu của Á châu, vì VN có đủ điều kiện từ địa dư, tài nguyên đến con người để trở thành một cường quốc.

Thế nhưng ông tiếc cho VN, và ông chê lãnh đạo VN. Khi được hỏi ý kiến, ông khuyên là cải cách kinh tế cần phải đi đôi với cải cách chính trị, nhưng giới lãnh đạo VN không chịu nghe. Ông nói rằng giới lãnh đạo VN không thể khá lên được vì họ bị “giam tù” bởi vòng kim cô ý thức hệ cộng sản. Theo ông, giới lãnh đạo VN không có khả năng đổi mới bản thân họ, không có khả năng đổi mới tư duy chính trị kịp thời đại, và do đó họ làm trì trệ sự phát triển của đất nước, họ kéo đất nước họ xuống hàng lạc hậu và nghèo đói. Tôi nghĩ nếu tôi là lãnh đạo của VN, tôi cảm thấy nhục khi nghe ý kiến như thế của một ông chỉ xứng tầm thị trưởng. Nhưng vấn đề là ông nói đúng.

Nhưng cũng phải nói thẳng là cái xã hội mà ông Lý kiến tạo chưa hẳn là “tối ưu” đâu. Nên nhớ rằng có thời ông ấy theo đuổi chủ nghĩa ưu sinh, khuyến khích người có bằng đại học lấy nhau. Ông hạn chế tự do báo chí và tự do ngôn luận. Ông tạo ra một “Anh Cả” (big brother) quan sát mọi hành vi của công dân. Ông can thiệp thô bạo vào đời sống riêng tư của người dân. Bởi thế, có lần một nhà báo hỏi tôi là đại học Việt Nam nên học đại học Singapore, tôi trả lời là không, bởi vì theo tôi biết qua vài trường hợp thì các đại học Singapore không có tự do học thuật như ở phương Tây. Nghe nói cái mô hình cai trị của ông Lý được giới lãnh đạo Tàu rất thích, và như thế thì cũng đủ để chúng ta cẩn thận với “mô hình Singapore”.

Nhưng có một điểm sáng của Singapore mà tôi thích, đó là phi ý thức hệ. Nói về ý thức hệ, ông Lý cho biết Singapore là một quốc gia phi ý thức hệ (ideology-free). Nếu có thì ông gọi đó là “Ý thức hệ Singapore”, thấy cái gì tốt và có lợi cho quốc gia dân tộc thì làm, chứ không bị trói buộc vào bất cứ một ý thức hệ nào cả. Ông nói thêm rằng nếu nó [ý thức hệ Singapore] có hiệu quả, thì chúng ta hãy thử nghiệm nó xem sao. Nếu nó tốt thì chúng ta tiếp tục. Nếu nó không có hiệu quả thì chúng ta quẳng nó đi và thử cái khác. Một “triết lí” thực dụng và đơn giản thế mà tại sao những người đang lèo lái con thuyền VN không nhận ra. Tại sao phải bám theo một chủ nghĩa đã lỗi thời và hết sức sống.

figure.jpg

Biểu đồ so sánh thu nhập bình quân giữa Singapore và Việt Nam từ 1960-2011

Posted in Nhan Vat Chinh tri, Thời Sự | Leave a Comment »

►Vì sao TQ cấm làm đường gần biên giới, còn VN lại mở toang cửa ngõ biên với TQ?

Posted by hoangtran204 trên 25/03/2015

VOA

Lê Anh Hùng

25-03-2015

Quân đội Trung Quốc đã yêu cầu ngưng dự án được chính quyền thành phố Phòng Thành Cảng phê duyệt vào ngày thứ hai xây dựng công trình này hồi tháng Hai.

Trung Quốc: dã tâm xâm lược Việt Nam

VOA ngày 22.3 đưa tin: Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tháng trước đã ngưng một dự án làm đường của chính quyền một thành phố nằm gần biên giới với Việt Nam vì lo ngại nó có thể được sử dụng cho một “cuộc xâm lược của Việt Nam”. 

Theo bài báo, một bản tin đăng trên trang web của Bộ Quốc phòng Trung Quốc dẫn lời một quan chức phụ trách các vấn đề biên giới ở thành phố Phòng Thành Cảng thuộc Khu Tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây nói rằng, một khi được hoàn thành, tuyến đường nối liền một ngôi làng ở vùng biên giới với thành phố Phòng Thành Cảng cách đấy 100 cây số “thực sự là mối đe dọa cho an ninh và quốc phòng” của Trung Quốc. 

Đây là một bằng chứng nữa cho thấy, Trung Quốc luôn sẵn sàng cho một cuộc xâm lược mới nhằm vào Việt Nam, đặc biệt là cuộc chiến nhằm thôn tính và kiểm soát hoàn toàn quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Theo các chuyên gia quân sự, một khi Trung Quốc tấn công Trường Sa, quân đội Việt Nam có thể vượt biên giới tấn công vào các cơ sở kinh tế hay quân sự của Trung Quốc ở gần khu vực biên giới. Mục đích của cuộc tấn công sang Trung Quốc không chỉ nhằm trả đũa hành động xâm lược của Bắc Kinh, mà còn nhằm mục đích chia sẻ hoả lực và ủng hộ tinh thần cho các lực lượng bảo vệ Trường Sa, buộc Trung Quốc phải rút quân.

Việt Nam: mở toang cửa ngõ đón quân thù

Việc Trung Quốc vẫn nung nấu dã tâm thôn tính Việt Nam thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bởi dòng máu họ Bành dường như đã chảy trong huyết quản của người Hán ngay từ thuở “khai thiên lập địa”, mà mảnh đất phương Nam thì luôn khiến họ thèm khát từ hàng ngàn năm nay.

Điều đáng ngạc nhiên ở đây là không hiểu sao chính phủ Việt Nam lại cứ như mở toang cửa ngõ biên giới của mình để “mời chào” đội quân xâm lược đến từ phương Bắc.

Tuyến đường cao tốc Lào Cai – Hà Nội đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát lệnh thông xe vào ngày 21/9/2014. Đây là tuyến cao tốc hiện đại dài nhất Việt Nam, với 245km, đi qua 5 tỉnh thành là Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Nội. Nhờ tuyến đường mới này mà thời gian đi xe từ Lào Cai về Hà Nội được rút xuống một nửa, chỉ còn 3-4 giờ.

Tháng 11/2014, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã cho phép tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư dự án đường cao tốc Móng Cái – Hạ Long và đang được lãnh đạo tỉnh này khẩn trương triển khai, song song với dự án cao tốc Hạ Long – Hải Phỏng.

Tháng 10/2014, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cũng đã đồng ý triển khai đầu tư cho tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lạng Sơn (đoạn Bắc Giang – Lạng Sơn). Dự kiến dự án này sẽ được triển khai trong đầu năm 2015.

Ngày 7/9/2014, tại lễ khởi công xây dựng tuyến đường cao tốc Thái Nguyên – Bắc Kạn, Thủ tướng  Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo sẽ đầu tư xây dựng tuyến cao tốc từ Bắc Kạn lên Cao Bằng.

Cách đây 1 năm, Bộ Giao thông – Vận tải cũng đã thông qua báo cáo phương án xây dựng tuyến đường kết nối đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai với Lai Châu và Hà Giang.

H1

 

Như vậy, các hướng tiến quân chính của Trung Quốc trong cuộc xâm lược Việt Nam từ 17/2 – 16/3/1979 (Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu) đều đã hoặc sắp có đường cao tốc nối từ biên giới Việt -Trung về Hà Nội.

Trước khi diễn ra cuộc xâm lược quân sự, các tuyến đường cao tốc này đã góp phần vô cùng quan trọng giúp Trung Quốc giành chiến thắng ngoạn mục trong cuộc xâm lược Việt Nam về kinh tế.

Kế hoạch xâm lược Việt Nam của Trung Quốc

Tháng 8.2008, một số trang mạng ở Trung Quốc như Sina.com đã đăng bản kế hoạch xâm lược Việt Nam trong 31 ngày dưới tựa đề “Quân Đội Trung Quốc hãy dùng Phương án A để tấn công VN!”, khởi đầu bằng 5 ngày tấn công bằng tên lửa rồi tới cao trào là tiến quân bằng đường bộ với 310.000 lính tràn vào Việt Nam từ Vân Nam, Quảng Tây và Nam Hải.

Trung Quốc hiện đã kiểm soát được một khu vực đất đai và mặt biển rộng tới 3.300ha (bằng 1,2 lần diện tích Macao) ở Vũng Áng, trong đó có cảng nước sâu Sơn Dương, ngay dưới chân đèo Ngang (Hà Tĩnh). Ở đây, “nhà đầu tư” Formosa đã xây dựng những công trình rất đáng ngờ như đường hầm chạy thẳng ra biển, hay toà nhà 9 tầng toàn bằng bê tông cốt thép, không sử dụng lấy 1 viên gạch nào.

Như vậy, thay vì dùng hải quân đánh vào Thanh Hoá như sơ đồ tác chiến trên, từ căn cứ Formosa Hà Tĩnh, Trung Quốc chỉ cần một lực lượng quân sự nhỏ là đủ để chia cắt Việt Nam thành hai phần ở đèo Ngang, một vị trí hết sức hiểm yếu về an ninh – quốc phòng.

Cấu kết?

Các tuyến đường cao tốc giúp Trung Quốc khai thông các hướng tiến quân xâm lược Việt Nam và việc người bạn “4 tốt, 16 vàng” này chiếm lĩnh được những vị trí hiểm yếu về an ninh – quốc phòng như Vũng Áng cùng chia sẻ một điểm chung: chúng đều là “tác phẩm” của cặp bài trùng Hoàng Trung Hải – Nguyễn Tấn Dũng.

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải là người ký Công văn số 323/TTg-QHQT ngày 4/3/2008 “đồng ý chủ trương cho Tập đoàn công nghiệp nặng Formosa – Đài Loan lập Dự án đầu tư nhà máy liên hợp luyện thép và cảng nước sâu Sơn Dương tại Khu Kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh” và Công văn số 869/TTg-QHQT ngày 6/6/2008 “đồng ý việc Tập đoàn công nghiệp nặng Formosa thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương tại Khu Kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh”.

Tất cả những văn bản do mình ký, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đều ký nhân danh Thủ tướng Chính phủ, nên dĩ nhiên ông Nguyễn Tấn Dũng đều biết, bởi ông ta được báo cáo theo đúng quy định. Mới đây, sau gần 1 năm “ngâm” kết luận thanh tra sai phạm ở Hà Tĩnh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thống nhất với kết luận về sai phạm trong việc cấp phép tới 70 năm cho dự án Formosa, mà chính quyền Hà Tĩnh nói là do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chỉ đạo, nhưng lại đồng ý bảo lưu thời hạn đã cấp phép này.

Ông Hoàng Trung Hải là Phó Thủ tướng “phụ trách kinh tế ngành”, gần như nắm trong tay cả nền kinh tế Việt Nam. Ông Hải được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giao phụ trách những bộ quan trọng nhất của nền kinh tế: Bộ Công Thương; Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn; Bộ Giao thông – Vận tải; Bộ Xây dựng; và Bộ Tài nguyên – Môi trường.

Ngoài ra, ông ta còn được Thủ tướng tin tưởng giao phó hàng loạt ban bệ trọng yếu khác như Ban Chỉ đạo Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm; Ban Chỉ đạo Quy hoạch và Đầu tư Xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội; Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án trọng điểm ngành Giao thông – Vận tải; Ban Chỉ đạo Nhà nước về Dự án Điện Hạt nhân Ninh Thuận; Ban Chỉ đạo Xây dựng Nhà Quốc hội; Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia; Ban Chỉ đạo Quốc gia về ODA và vốn vay ưu đãi; Uỷ ban An ninh Hàng không Dân dụng Quốc gia; Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn, v.v.

Điều đặc biệt đáng quan ngại ở đây là: Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã bị tố cáo từ nhiều năm nay là một người Hán khai man lý lịch hòng “chui sâu, leo cao” trong hàng ngũ lãnh đạo ở Việt Nam. Việc giao cho một người Hán trá hình vô số trọng trách quán xuyến cả nền kinh tế và ảnh hưởng đặc biệt lớn đến nền an ninh – quốc phòng của nước nhà rồi tiếp tay, đồng loã để cho ông ta gây ra bao hậu quả vô cùng nguy hại cho đất nước rõ ràng là hành động phản quốc của người đứng đầu chính phủ Việt Nam.

Sau tất cả những gì đã xảy ra, dư luận có đủ lý do để kết luận rằng: tình trạng nền kinh tế Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc cũng như việc nhiều vị trí hiểm yếu về an ninh – quốc phòng bị Trung Quốc khống chế thông qua các dự án kinh tế trá hình là do sự cấu kết giữa Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.1

Bài liên quan:

  1. Lào Cai: ‘Tử huyệt’ của phòng tuyến biên giới phía bắc? (VOA)
  2. Trục đường cửa ngõ chiến lược Móng Cái – Hạ Long sẽ rơi vào vòng kiểm soát của Trung Quốc? (VOA)
  3. PTT Hoàng Trung Hải – hiểm họa đằng sau những trò mị dân (VOA)
  4. Bauxite Việt Nam đã công khai lên tiếng về vụ PTT Tàu Hoàng Trung Hải (Blog Lê Anh Hùng/Bauxite Việt Nam)
  5. Chính phủ Việt Nam đang ‘dâng’ nền kinh tế nước nhà cho Trung Quốc? (VOA)
  6. Trung Nam Hải đang toan tính gì với con bài Nguyễn Tấn Dũng? (VOA)

——————-

Ghi chú:

1. Tác giả bài viết này là người vẫn đang theo đuổi vụ tố cáo ông Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng Trung Hải – Nông Đức Mạnh suốt 7 năm qua. Trong câu chuyện tố cáo, tác giả đã nêu rõ, Hoàng Trung Hải đã gài bẫy và khống chế cả Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lẫn (nguyên) Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh kể từ năm 2006 và biến họ thành tay sai cho ông ta cũng như cho Bắc Kinh. Đây là một vụ tố cáo vô cùng nghiêm trọng, liên quan đến những người đã và đang nắm giữ vận mệnh quốc gia, kéo dài trong nhiều năm mà vẫn chưa được giải quyết đúng pháp luật, trong khi người tố cáo thì thường xuyên phải hứng chịu những hành động khủng bố, trả thù với nhiều hình thức khác nhau. Chừng đó là quá đủ để cho thấy bản chất của vụ việc.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ từng nêu vụ Lê Anh Hùng bị công an Hà Nội và Hưng Yên cưỡng chế vào trại tâm thần từ ngày 24.1 ÷ 5.2.2013 như một vụ vi phạm nhân quyền điển hình của nhà cầm quyền Việt Nam trong năm 2013.

——–

 

Tiến sĩ Trần Công Trục nhận định việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo ở Trường Sa: “Đó là những căn cứ quân sự mang tính chất tấn công”

4-3-2015

 (Tháng 3-2014)                         (Tháng 8-2014)                      (1-2015)
uunwjfgf.jpg

Hình ảnh chụp từ vệ tinh của Công ty vũ trụ châu Âu Airbus Denfense & Space (trước đây có tên là EADS, đổi tên từ đầu năm 2014) vào các thời điểm khác nhau từ tháng 3-2014 đến tháng 1-2015 trên bãi Ga Ven thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho thấy sự lấn chiếm xây đảo nhanh chóng của Trung Quốc

Việt Nam cần tăng cường đấu tranh trên các mặt trận ngoại giao và pháp lý, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động thực địa để theo dõi thông tin chủ động hơn nữa.

Ðó là nhận định của tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng Ban Biên giới Chính phủ, với Tuổi Trẻ.

* Tuổi Trẻ: Ông James Clapper, giám đốc Cơ quan tình báo quốc gia Mỹ, vừa tố Trung Quốc có hành động hung hăng trên biển Ðông thông qua việc mở rộng các tiền đồn ở biển Ðông làm sân bay và nơi đồn trú tàu thuyền. Ông có bình luận gì?

– Thông tin, hình ảnh của tình báo Mỹ và quan điểm của Chính phủ Mỹ về các hành động của Trung Quốc ở khu vực quần đảo Trường Sa rõ ràng là những sự thật không thể chối cãi được.

Trung Quốc đã có những hoạt động hết sức mạnh mẽ, khẩn trương và trên một quy mô rất lớn để xây dựng những công trình quân sự như đường băng sân bay, khu hậu cần, các đồn bốt nhằm phục vụ lực lượng quân sự của Trung Quốc.

“Giữ quan hệ hữu nghị, duy trì đàm phán hòa bình, không tạo ra xung đột là điều chúng ta đang phấn đấu, nhưng không có nghĩa chúng ta không thể hiện lập trường pháp lý của mình”

» Tiến sĩ TRẦN CÔNG TRỤC

Mỹ là một trong những nước có lợi ích gián tiếp ở biển Ðông, đặc biệt về lĩnh vực hàng hải, địa chính trị với tư cách là một nước lớn.

Rõ ràng họ có quan tâm đến vấn đề này. Ðây là sự quan tâm rất thiện chí chứ không thể nói họ có ý định nào đó để gây ra những mâu thuẫn. Chúng ta cần phải nghiên cứu sự quan tâm này.

* Ông từng phát biểu việc Trung Quốc xây dựng đảo chìm thành đảo nổi nguy hiểm hơn giàn khoan Hải Dương 981 rất nhiều? Ông có thể giải thích rõ hơn?

– Giàn khoan Hải Dương 981 là hoạt động thăm dò, thử phản ứng và Trung Quốc có thể cắm và rút nó bất cứ lúc nào. Còn các công trình trái phép của Trung Quốc xây dựng ngay trên lãnh thổ của Việt Nam vốn bị Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực.

Hơn nữa, xét về mặt địa chính trị và chiến lược quân sự, rõ ràng các công trình trái phép này sát bờ biển của Việt Nam, nằm xen kẽ các vùng Việt Nam có đóng quân và trên tuyến đường hàng hải ở phía nam biển Ðông. Do vậy các công trình trái phép này nguy hiểm hơn rất nhiều.

Trung Quốc đang thiết lập các nhịp cầu để làm bàn đạp tấn công. Có thể sẽ có lúc họ dùng vũ lực để đánh chiếm các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam như các năm 1956, 1974, 1988 và cũng có thể họ sẽ tiến hành “chiến tranh xâm lược mềm” như triển khai tàu đánh cá, hoạt động dầu khí và hàng không trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Ðây chính là một trong những mũi tiến công hết sức nguy hiểm của Trung Quốc.

* Sau phát biểu của ông Clapper, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi ngang nhiên nói các hoạt động trên các bãi cạn và vùng biển xung quanh ở Trường Sa là “hợp lý, chính đáng và hợp pháp” và thái độ của Bắc Kinh là “kiềm chế và có trách nhiệm”? Nên hiểu như thế nào?

– Ðây rõ ràng là những lời lẽ mang tính chất ngụy biện, che đậy những hành động sai trái và hăm dọa của họ.

Hành động của họ là sai nhưng họ tố cáo lại để giành thế chủ động. Họ nói họ chấp hành và có trách nhiệm trong việc bảo vệ hòa bình. Nếu chúng ta không tiếp tục làm rõ thì bạn bè và dư luận sẽ không hiểu vấn đề.

Ngoài ý nghĩa về mặt quân sự, Trung Quốc còn muốn biến những công trình này trở thành các căn cứ hậu cần để phục vụ các hoạt động sắp tới như cắm giàn khoan khai thác dầu, để không cần phải kéo hàng trăm tàu bảo vệ như vụ giàn khoan Hải Dương 981 năm ngoái.

Có thể nói đây là những công trình quân sự mang tính chất tấn công và hoàn toàn phù hợp với chiến lược của Trung Quốc trong việc từng bước đặt các nhịp cầu để có thể vươn ra khống chế và độc chiếm biển Ðông theo yêu sách lưỡi bò của mình.

Bài học Hoàng Sa bị mất vẫn còn đó. Họ từng bước chiếm Hoàng Sa vào năm 1956 và 1974. Ðây là mũi tấn công hết sức nguy hiểm mà chúng ta không thể không cảnh giác.

* Báo chí Trung Quốc cho rằng từ các căn cứ quân sự ở Trường Sa, Trung Quốc có thể tấn công vào Việt Nam trong vòng 24 giờ?

– Dù đây không phải là thông tin chính thức từ các cơ quan quân sự hay ngoại giao của Trung Quốc nhưng hoàn toàn là một suy luận logic. Thông tin này đến từ phía dư luận và các trang mạng từ Trung Quốc.

Thật ra, điều này nằm trong sự bài binh bố trận của Trung Quốc nhằm mang tính răn đe. Cho nên Việt Nam phải cảnh giác.

Một lần nữa tôi muốn nhắc lại đây là những căn cứ quân sự mang tính chất tấn công chứ không phải phòng thủ.

* Phía Việt Nam và những nước có quyền lợi và chủ quyền ở biển Ðông cần phải làm gì, thưa ông?

– Như chúng ta đã biết, Việt Nam là nước có lãnh thổ bị Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực quân sự. Sau đó, Trung Quốc biến các đảo chìm thành đảo nổi, trở thành căn cứ hùng hậu và kiên cố ở khu vực.

Chúng ta phải đấu tranh mạnh mẽ, chí ít là ở mặt trận thông tin truyền thông cùng với việc tăng cường đấu tranh trên mặt trận pháp lý và ngoại giao.

Về mặt pháp lý, chúng ta phải thể hiện ý chí không bao giờ chấp nhận hành động sai trái của Trung Quốc.

Chúng ta cần phải phản đối mạnh mẽ hơn và có lập trường rõ ràng hơn. Ðồng thời kêu gọi sự ủng hộ quốc tế bằng cách phân tích cho bạn bè quốc tế hiểu rõ chủ quyền của chúng ta và việc Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực là sai như thế nào.

Ngoài ra, chúng ta cũng phải đẩy mạnh các hoạt động thực địa, theo dõi và nắm thông tin tường tận. Nếu Việt Nam nắm rõ thông tin thì phải công bố những thông tin chủ động hơn nữa để người dân có thể hiểu rõ vấn đề. Rõ ràng giá trị của thông tin sẽ mạnh mẽ hơn nhiều.

yextzenr.jpg* Việt Nam có nên áp dụng các biện pháp đấu tranh như vụ giàn khoan Hải Dương 981?

– Theo tôi thì phải nâng đấu tranh ở mức cao hơn nữa, chẳng hạn như tăng cường phản đối lên các tổ chức Liên Hiệp Quốc. Làm rõ các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế và Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển của Trung Quốc.

Rõ ràng tất cả biện pháp đấu tranh của chúng ta trong sự kiện giàn khoan có tác động rất lớn và Trung Quốc buộc phải thay đổi chiến thuật của mình.

Ðây là bài học nhãn tiền chúng ta cần phải rút ra. Chúng ta phải phát huy tất cả biện pháp đấu tranh có thể để giúp các bên cùng nhau giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và có hiệu quả nhất.

QUỲNH TRUNG thực hiện

* * *Phụ lục:

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh: ‘Quân đội phải kiểm soát được tình hình trên biển’

Hôm 20.10.2014, bên lề phiên họp khai mạc kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 13, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã trả lời phỏng vấn báo chí về buổi làm việc của ông với Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Thường Vạn Toàn ở Bắc Kinh.

* Thưa Bộ trưởng, xin Bộ trưởng cho biết kết quả chuyến thăm và làm việc của đoàn cán bộ do Bộ trưởng dẫn đầu tại Trung Quốc vừa qua?

Bạn đón tiếp ta rất nhiệt tình, trọng thị, chu đáo và rất hữu nghị. Mục đích của chuyến đi là 2 bên bàn bạc với nhau để tăng cường thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa quân đội của 2 nước cũng như Đảng, Nhà nước và nhân dân 2 nước. Chúng tôi thống nhất với nhau là tranh chấp thì phải giải quyết bằng biện pháp hoà bình còn quân đội thì phải kiểm soát được tình hình trên biển, hết sức tránh việc sử dụng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực và tránh không để xảy ra xung đột, va chạm vũ trang trên biển. Hai bên thống nhất với nhau ký 1 bản ghi nhớ về kỹ thuật để thiết lập đường dây liên lạc thường xuyên trực tiếp giữa 2 Bộ trưởng Quốc phòng để khi có tình huống, va chạm, vụ việc xảy ra trên biển thì 2 bên có thể gọi nhau để trao đổi được với nhau, kiểm soát cho được những diễn biến trên biển, tránh xung đột. Hai bên thống nhất với nhau là phải kiểm soát tốt biên giới để xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển lâu dài, tạo điều kiện tối đa cho nhân dân 2 nước đi lại, giao thương, làm ăn hợp pháp.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh – Ảnh: L.Dũng

Tôi cũng đề nghị phía Trung Quốc sớm dỡ bỏ cảnh báo về du lịch để nhân dân 2 nước đi lại giao lưu. Hoạt động du lịch phát triển thì hoạt động hàng không cũng phát triển, như thế thì tăng cường hữu nghị và mới tăng cường sự tin cậy giữa 2 bên.

* Thưa Bộ trưởng, 2 bên có bàn về việc phía Trung Quốc đốc thúc nhiều hoạt động xây dựng trên khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng như chuyện giàn khoan đã xảy ra ít tháng trước?

Chúng tôi có trao đổi là giờ phải giữ nguyên hiện trạng, trên biển Đông phải thực hiện cho đầy đủ DOC – tinh thần, quan điểm chung là không mở rộng tranh chấp, không cắm mới vào những nơi mà các bên chưa cắm. Khi trao đổi với bạn, nói chung bạn ghi nhận ý kiến của phía Việt Nam.

* Họ có đưa ra một cam kết, lời hứa nào về việc giữ nguyên hiện trạng như này?

Hứa thì bạn không hứa nhưng nói chung 2 bên đều thống nhất phải thực hiện DOC – nghĩa là không mở rộng, làm phức tạp thêm tranh chấp. Còn hiện nay trên biển, nói thật là các bên đều có xây dựng. Đài Loan cũng xây dựng, Philippines cũng tiến hành xây dựng đường băng, Malaysia có xây dựng. Việt Nam cũng có hoạt động xây dựng, đó là tôn tạo, nâng cấp, mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, cho các lực lượng đóng quân trên đảo để đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, đảm bảo điều kiện sinh hoạt trên đảo. Tuy nhiên nguồn lực của ta còn có hạn nên việc xây dựng quy mô chưa lớn như Trung Quốc.

* Nhiều chuyên gia nêu ý kiến lo ngại hướng xây dựng của Trung Quốc là để hình thành một căn cứ quân sự tấn công. Điều đó đe doạ mối an ninh hàng hải trong khu vực. Cảnh báo đó có đáng suy nghĩ, lo ngại không, thưa Bộ trưởng?

Đó là các nhà nghiên cứu dự báo thôi chứ còn đương nhiên bên nào mà tiến hành xây dựng thì đó cũng là một căn cứ quân sự cả. Quan trọng là phải thống nhất với nhau giữ cho được môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác, tránh dùng vũ lực.

* Ghi nhận nào quan trọng nhất giữa các Bộ trưởng trong lần gặp này?

Quan trọng nhất là thoả thuận 2 bên phải hợp tác theo tinh thần hữu nghị của lãnh đạo 2 Đảng, Nhà nước, giữ gìn môi trường ổn định, hoà bình và kiểm soát cho được hoạt động của lực lượng vũ trang 2 nước trên biển, không dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực và để xảy ra xung đột vũ trang ở trên biển.

Hà Nguyễn (ghi)

Posted in Chiến lược xâm nhập của Trung Quốc vào Viet Nam | Leave a Comment »

►Lý Quang Diệu: “Chỉ có kẻ ngu mới chống Mỹ “

Posted by hoangtran204 trên 25/03/2015

Chỉ có kẻ ngu mới chống Mỹ. Đảng CSVN chống Mỹ. Vậy, bọn này chính là những kẻ ngu và giờ này vẫn còn ngu.

Chỉ có kẻ ngu mới chống Mỹ

30-5-2014

LyQuangDieuMỹ đang gặp nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một

Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.

Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.

Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này

Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác.

Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”)

Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một sự dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể.

Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.

(Hiện nay, quý 1, 2015, nền kinh tế Mỹ đã phục hồi và đang là đầu tàu của thế giới. Đồng đô la Mỹ tăng giá so với tiền Euro, và hầu hết các nước phương Tây còn đang ngụp lặn vì suy sụp kinh tế và tài chánh kể từ 2008 tới nay, thì tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ giảm xuống còn 5.6% , kinh tế Mỹ phát triển ổn định suốt năm 2014 và đang là đầu tàu kéo theo nền kinh tế của cả thế giới.  Trong khi kinh tế Trung Quốc đang chậm lại và có khả năng suy thoái. Mức phát triển kinh tế của Trung Quốc trong năm ngoái và năm nay chỉ còn giao động từ 6.5-  7%).

Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.

Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.

Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam . Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.

Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.

Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.

Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.

Cuộc cạnh tranh cuối cùng

Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.

Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.

Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.

Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.

Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.

Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.

Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.

Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.

Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.

Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Lý Quang Diệu

Thứ Sáu, ngày 30 tháng 5 năm 2014
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

 

*Mời các bạn ghé qua đây đọc các lời bình luận:

danchimviet.info

Posted in Nhan Vat Chinh tri | Leave a Comment »

►Gói đầu tư của đồng chí Trọng mất giá thảm hại

Posted by hoangtran204 trên 25/03/2015

24-3-2015

Chỉ đến Hội nghị Trung ương 7 thì mọi người mới rõ, tuy nhiên trước đó, bao nhiêu vốn liếng chính trị đã được Tổng Bí thư xỉa hết vào cửa đồng chí Phạm Quang Nghị, quyết kiếm món hời theo kênh đầu tư lâu dài tại Đại hội 12. Nhìn vào chính trường mấy năm rồi, nhà phân tích đầu tư ít năng lực nhất cũng phải nói rằng đây là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả nhất. Xét riêng việc này, so với các đời Tổng bí thư tiền nhiệm, tầm nhìn của nhà đầu tư Nguyễn Phú Trọng không phải là ngắn hạn.

Có điều, kênh đầu tư này cứ càng ngày càng tối. Chỉ xem riêng cái vụ chặt cây thì rõ.

Quản lý nhà nước ở Thủ đô bộ mặt của cả nước mà làm ăn thì văng mạng, mang nặng dấu ấn của mấy ông cai thầu xây dựng. Đáng tiếc, đây đã và đang là cách làm của ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch phụ trách xây dựng cơ bản của Thủ đô, nơi ngốn một phần rất lớn ngân sách xây dựng cơ bản của cả nước hàng năm. Giới quan sát chính trị Thủ đô cho hay, cách làm xưa nay của ông Hùng vẫn vậy. Hồi ông giành được ghế Giám đốc Sở GTVT từ ông Trần Danh Lợi một cách ngoạn mục (đưa ông Lợi xuống làm Phó dù ông Hùng không phải Thành ủy viên, không có chuyên môn Giao thông còn ông Lợi đang là Thành ủy viên, là Tiến sĩ giao thông – ai cũng biết phải Bí thư Phạm Quang Nghị quyết mới được thế), ông đã nhanh nhảu nhân rộng lối làm ăn cai thầu ra toàn bộ Thủ đô.

Còn nhớ, trước đó, ông Hùng vẫn là cai thầu xây dựng (Giám đốc Ban Quản lý dự án xây dựng Tả ngạn) với dấu ấn lớn nhất về năng lực của ông là xây cây cầu cỏn con bắc qua sông Đuống về làng đồng chí Trọng mà mất gần chục năm, qua vài lần điều chỉnh khiến vốn tăng nhiều lần so với dự toán ban đầu.

Ngồi ghế Giám đốc sở GTVT mấy bữa, được Bí thư (PQN) hậu thuẫn, đánh rụp một cái ông bỏ toàn bộ đèn tín hiệu ở các nút giao thông, ngăn và bịt hết các ngã ba ngã tư rồi bắt hàng triệu người dân Thủ đô cùng hàng triệu người khác qua Thủ đô hàng ngày phải đi kiểu rồng rắn do ông tự vẽ ra (cần nhắc lại là ông Hùng không có chuyên môn giao thông).

Mới trước đó, thành phố còn phải đi vay hàng trăm triệu đô la của Pháp và Ngân hàng Thế giới để nâng cấp hệ thống đèn tín hiệu và chỉnh trang các nút giao. Chính chương trình Táo giao thông cũng phải thốt lên “… loay hoay quanh năm hết gỡ lại ngăn, có anh giao thông tăng cường kiếm ăn …”. Báo chí chất vấn thì ông tỉnh bơ bảo đây là chủ trương của Thành ủy, ý là các anh có dám thách thức cái ông chóp bu kia không. Quanh quẩn hết xây lại đập, đập lại xây, ngốn bao tiền, được vài năm. Vừa qua ông cảm thấy chán, ông từ bỏ lối dị thường và cho dân đi lại theo lối thông thường: bỏ ngăn nút giao, phục dựng lại đèn giao thông, sau khi đã làm lãng phí không biết bao tiền của nhân dân. Có điều, ông mượn cái mồm Ban Tuyên giáo rêu rao rằng hiệu quả lắm, dân Hà Nội nhờ có ông mà nâng cao được ý thức, biết đi lại theo làn đường. Còn Bí thư PQN thì kịp lăng-xê luôn: lãnh đạo Hà nội phải kén đồng chí nào dám nghĩ, dám làm. Kết quả là ông Hùng nhảy tót lên Phó Chủ tịch Hà Nội. Vừa qua, ông này lại còn được cơ cấu vào Trung ương khóa tới với tham vọng sẽ làm Chủ tịch Hà Nội hoặc Bộ trưởng Xây dựng, Giao thông.

Từ sau khi có Luật Thủ đô ra đời, ông Hùng càng mạnh tay tợn vì có thêm quyền và tiền. Cách làm ăn cai thầu bây giờ được che đậy tinh vi hơn dưới mác “chủ trương”. Qua mấy năm làm ăn ở đất Hà Nội, ông có sự trưởng thành và cao thủ hơn tay cai đầu dài ở chỗ biết đưa thêm cái anh Tuyên giáo vào trong tốp thợ cùng làm ăn. Thế nên báo chí đã quá quen với cảnh, phàm việc gì liên quan đến giao thông đô thị là thế nào Ban Tuyên giáo cũng nhảy vào “định hướng dư luận” theo một mô típ nhàm chán: chủ trương lúc nào cũng đúng, việc này được nhân dân đồng thuận, đánh giá cao … Bí quá thì: chúng tôi luôn lắng nghe ý kiến trái chiều (dù đóng góp đúng đến mấy vẫn bị các đồng chí xếp vào loại trái chiều). Tuyên giáo mà tịt thì đã có Bí thư tiếp sức (tuyên bố chủ trương luôn đúng nhưng cách làm còn nóng vội), hoặc dí anh sở chuyên ngành vào nói bậy bạ (đường Trường Chinh cong một cách “mềm mại”). Bí nữa thì chơi kiểu chày cối như anh cựu công an Phan Đăng Long: không cần phải hỏi dân. Đường cùng thì đưa công an ra dọa.

Ngay trong lúc ông Hùng bị báo chí quây tại chính trụ sở UBND Thành phố và phải cuống cuồng tháo chạy thì Bí thư Nghị khôn ngoan ém mình tại quận Nam Từ Liêm chỉ đạo một cuộc họp nhưng vẫn gân cổ ca điệp khúc cũ: đây là chủ trương đúng và thành phố luôn lắng nghe ý kiến trái chiều. Có điều lần này khúc ca của đồng chí không được báo nào đăng tải.

Chặt phá hàng nghìn cây vừa rồi tại thủ đô chỉ là việc làm nhỏ của những ông quan quản lý nhà nước làm ăn theo kiểu cai đầu dài. Nếu công luận không lên tiếng, nay mai tiếp theo sẽ là uốn lại sông Hồng chảy thẳng hướng cho nghiêm túc, thay nước Hồ Tây cho sạch sẽ thơm tho, biến các công viên thành cao ốc cho hiện đại, lấy đất của dân giao cho các tư bản đỏ làm kinh tế cho đỡ lãng phí, đường nào cong thì nắn cho thẳng, đường nào thẳng thì phải biến thành cong cho “mềm mại” kiểu đường Trường Chinh như chính lãnh đạo thành phố từng tuyên bố, vài triệu dân Thủ đô phải ăn mặc nói năng đi lại theo đúng Bộ Quy tắc ứng xử người Hà Nội do Tuyên giáo và Sở Văn hóa ban hành …. “Chủ trương” nào theo các quan lý giải đều đúng hết. Xem ra, nếu trúng Tổng Bí thư, chắc đồng chí Nghị sẽ kiện toàn và nhân rộng mô hình quản lý quốc gia dựa trên thế chân vạc: Cai đầu dài, Tuyên giáo và Công an; thay thế hệ thống pháp luật bằng “Chủ trương” và Nghị quyết.

Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung – Giám đốc CA Hà Nội – đang trồng cây mà chính quyền gọi là vàng tâm nhưng các nhà chuyên môn gọi là gỗ mỡ (một loại cây rẻ tiền), một phần trong chiến dịch tàn sát và thay thế 6700 cây xanh tại Hà Nội. Cũng trong chiến dịch, nhiều cây gỗ sưa đắt tiền đã bị đốn lấy gỗ bán cho Trung Quốc.

Chỉ riêng vụ chặt hàng nghìn cây rất có thể dẫn tới việc Phó chủ tịch Nguyễn Quốc Hùng bị khởi tố về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng hoặc ít nhất thì cánh cửa vào Trung ương của ông coi như đã đóng sập.

Kết hợp với công luận ngày càng bức xúc trước nhiều sai phạm trong ê kíp dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nghị, người ta thấy gói đầu tư của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đang mất giá. Vẫn biết đồng chí đang gắng gượng tìm kiếm kênh đầu tư thay thế, đi Tàu, đi Mỹ v.v., nhưng những việc xảy ra vừa qua chắc chắn sẽ đẩy các chiến lược đầu tư của đồng chí lâm vào khủng hoảng khó dự đoán hậu quả, đặc biệt trong bối cảnh thị trường đầu tư tới đây sẽ phát sinh nhiều diễn biến không thể lường trước.

 

*Trong cuộc họp bầu tín nhiệm tháng 1/2015, Phạm Quang Nghị đứng gần chót bảng, hạng 19/20; Phạm Quang Nghị được Nguyễn Phú Trọng đỡ đầu.

Xem thêm ở đây

http://tuanvannguyen.blogspot.com/2015/01/tin-on-nong-ket-qua-bo-phieu-tin-nhiem.html

 

 

Posted in Nhan Vat Chinh tri, Thời Sự | Leave a Comment »