Lời Tựa: Điều quan trong nhất mà báo chí, tài liệu lý luận, nghị quyết,…của đảng thường nhắc tới là: mục tiêu của cả nước VN là phấn đấu tiến lên xhcn, tiến lên chủ nghĩa cộng sản…
Nhưng khi có người thắc mắc hỏi chủ nghĩa CS nó ra làm sao? dài méo, vuông tròn, mùi vị của “nó” như thế nào? Có ai, có nước nào từng đạt, từng tiến đến và sống trong chủ nghĩa CS chưa…thì các đảng viên cộng sản bắt đầu cà lăm, ú ớ và ngọng miệng.
Tất cả các đảng viên đều không thể trả lời được câu hỏi đơn giản ấy. Bù lại, họ sẽ lôi ra một loạt các lời mô tả về chủ nghĩa cộng sản một cách rất trừu tượng, trái ngược với bản chất ăn thua cố hữu và tính thực tế của người đảng viên đảng CS.
Blogger Đinh Tấn Lực đã trích các bài viết của chính các nhà lãnh đạo của đảng, của các tác giả viết về các lãnh tụ của đảng CSVN và đưa ra các phân tích rất hay :
Quyết tâm đạt đến cái đích mà cả đảng không ai biết
Tác giả; Đinh Tấn Lực
Người trả lời có ghi trích nguồn: Theo tạp chí Nghệ Thuật.
Lại có câu trả lời khác, dù không được bình chọn và sắp hạng, nhưng cũng đáng quan tâm:
À há! Eureka! (Nguyên lý) Đây rồi! (Xin phép các họa sĩ đáng kính,) Thế là rõ:
Chủ Nghĩa Xã Hội của ta là loại bánh ga-tô có đủ cả 5 tính chất nói trên: Trừu tượng, Tả thực, Siêu thực, Lập thể, và, dễ nhận dạng nhất: Dã thú.
Vì sao à?
*Tạp chí Học Tập, số 35, tường thuật bài phát biểu của Hồ Chí Minh trong Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ II tại Việt Bắc, vào tháng 3 năm 1951, có đoạn như sau: Hồ Chí Minh chỉ hình 3 ông trên vách vừa nói.
Té ra, rõ ràng, cái Chủ Nghĩa Xã Hội mà Hồ Chí Minh đánh giá là cách mạng nhất, sáng suốt nhất, chính là một bức tranh trừu tượng của người khác.
Mà ngay cả tác giả của bức tranh trừu tượng đó cũng không hề coi ra gì đám xem tranh, cho dù là họ đang nức lòng chỉ tay hướng mặt về bức hình tác giả:
Đã vậy,
Mà, coi nào, trong Chính Cương, Hồ Chí Minh đã viết những gì gọi là cốt lõi?
Nghị quyết 6 của Trung ương đảng tháng11/1939 đề ra khẩu hiệu “Công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên”, và cả đảng có sứ mệnh phải “Dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Sắt máu tới vậy mà vẫn chưa vừa bụng Stalin!
Có nghĩa rằng tác giả bức tranh trừu tượng XHCN, kiêm Tổng tư lệnh nói trên, không đánh giá ngược rằng tay thưởng ngoạn như Hồ có đủ tầm xứng đáng để thưởng ngoạn.
Vậy thì, làm sao biết được Chủ Nghĩa Xã Hội đó tròn méo ra sao, và làm sao tin nổi cái mà hắn đã từng cả đời ba hoa mô tả lại rằng nó đẹp lắm, cách mạng nhất, sáng suốt nhất?
Thêm một chi tiết khác:
Tức là, đối với giới thưởng ngoạn cấp 2, ngọn đuốc soi đường cho họ không hẳn là bức tranh trừu tượng CNXH của ba ông/bốn bà nào sất, mà (thảm thay,) chỉ là mấy bài thơ trong tù của người xem tranh cấp 1.
Chẳng nghi ngờ gì thêm nữa. Gia tài của Hồ Chí Minh chỉ có thế.
Còn, CNXH của Hồ, với tính thật thà nói trên, hẳn phải là loại ga-tô tả thực?
*Lê Duẩn, người Bích La thôn, Quảng Trị, nổi tiếng trong 3 năm đổi đảng 3 lần: 1928 – Tân Việt Cách Mạng đảng; 1929 – VN Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh hội; 1930 – Đông Dương Cộng Sản đảng.
Đến 1951, Lê Duẩn vào BCH/TW và Bộ chính trị, ngay trong đại hội toàn đảng kỳ II.
Có người bảo uy tín của Lê Duẩn bấy giờ, vượt mặt Đại tướng Võ Nguyên Giáp, phần lớn là nhờ vào “bằng cấp” ở tù dài hạn và nhiều lần, y hệt như ý tứ ẩn dụ của người bày quyển Nhật kí trong tù vào phòng triển lãm Ngọn đuốc soi đường… vừa kể.
Lại có người khẳng định uy tín đó có được là bởi niềm tin son sắt của Lê Duẩn vào phương thức phát triển Xô viết và các nguyên tắc kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. (đến tận năm nay là 2012, liệu VN có nền công nghiệp nặng chưa? Cái sên xe đạp, con ốc đạt chất lượng là thuộc ngành công nghiệp nhẹ mà còn chưa làm được, thì công nghiệp nặng VN cũng không có. Công nghiệp nặng như ngành chế tạo xe hơi, xe dùng trong xây dựng, nông nghiệp, ngành xây dựng cao ốc, cầu đường, sản suất các máy móc dùng trong kỹ nghệ, các hãng chế tạo hóa chất…mà các tập đoàn của Nhật và Nam Hàn là các thí dụ nguốn – phần chữ màu nâu là củaTrần Hoàng thêm vào)
Từ đại hội IV (1976), Lê Duẩn giữ chức Tổng bí thư đảng cho tới chết (1986), với dấu ấn đậm màu về cuộc thanh trừng “chủ nghĩa xét lại hiện đại” long trời lở đất, và được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt tuyên dương là “ngọn đèn 200 nến”.
Tác phẩm “để đời” của Lê Duẩn, ngoài vụ án “xét lại/chống đảng”, chính là bản Đề Cương Cách Mạng Miền Nam (1956 – hợp thức hóa 1959 – một giai đoạn mà Trần Văn Giàu đánh giá là đen tối nhất của CSVN).
Cụ thể ra, Võ Văn Kiệt phục Lê Duẩn ở 3 công trình trọng điểm: Xua quân dàn trận Mậu Thân, trận Đường 9 Nam Lào, và trận Cổ Thành Quảng Trị.
Hai công trình phụ trội của Lê Duẩn mà Võ Văn Kiệt không dám nhắc là trận đánh chiếm Nam Vang/Siêm Rệp và trận phản công Cao Bằng/Lạng Sơn. Rất tiếc là các công trình đó không đạt yêu cầu, trong lúc toàn dân phải cắn răng đánh đổi bằng nhiều vạn bộ đội con em của họ.
Ngược lại, về mặt tư tưởng, có thể vinh danh là một phiên bản CNXH, họa sĩ Lê Duẩn cũng có tác phẩm để đời:
Cốt lõi là vậy, chi tiết thế nào?
- Dân chủ đến mức thực sự nhân dân làm chủ, con người làm chủ tập thể.
- Phát huy dân tộc và phát huy cá nhân từng người.
- Vận dụng thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội…
- Quá trình tạo dựng xã hội mới là quá trình nảy sinh chứ không phải chỉ là quá độ.
- Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế…
- Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…
- Phải vươn lên văn hóa và tri thức tiên tiến…
- Bảo vệ Tổ quốc, giữ vững quốc phòng và an ninh bằng lòng dân, sức dân…
- Đảng lãnh đạo, Đảng không cai trị, Đảng phát huy Nhà nước là công cụ chủ yếu, sắc bén nhất để dân làm chủ.
- Đảng viên nhất thiết không được quan liêu, sách nhiễu và ăn cắp của dân. Đưa ngay những kẻ như vậy ra khỏi Đảng.
- Con người Việt Nam là con người của lẽ phải và tình thương, tình thương và lẽ phải”
. (Võ Văn Kiệt).
Trên thực tế, qua nhận xét của một học giả nước ngoài:
Với tư duy Làm Chủ Tập Thể này, được coi là tư tưởng cốt lõi về CNXH của Lê Duẩn, chỉ ¼ thế kỷ sau khi Lê Duẩn đi dự hội nghị với Mác, đảng viên CSVN đã tự động lật ngược điều áp chót vừa nói, để chia đất/giành đất/cướp đất, bằng một tác phẩm mới cáu là “giải phóng mặt bằng”, và tự biến thành những triệu phú, thậm chí cả tỷ phú đỏ đít.
Ai làm chủ tập thể? Chắc chắn không phải dân:
Năm 1976, Lê Duẩn hồ hởi tuyên bố: “Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”. (Chao ôi! Đúng là kẻ điên rồ hoang tưởng. Ở miền Nam trước 1975, nhà nhà đã có 3 thứ này, kèm thêm truyền hình, xe Honda, và kể cả xe hơi. Vào google gõ chữ hình ảnh Sài Gòn trước 1975 sẽ thấy. Dân nghèo thường là các đồng bào ở các vùng có Việt Cộng tới phá hoại, lùng bắt dân đi theo chúng, đặt mìn trên các đường lộ,…dân sợ quá, bỏ trốn chạy lên thành phố lớn, ở tạm)
Năm 1986, ngay lúc hấp hối, vào giai đoạn đen tối nhất của kinh tế VN, Lê Duẩn đã thiết tha lệnh cho Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch nhà nước là bằng mọi cách, “nhân dân thủ đô Hà Nội phải có dự trữ gạo đủ 2 tháng ăn”. Nhớ là chỉ riêng nhân dân Hà Nội!
Đã có một vài học giả đồng ý với nhận xét: Những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam, khi Lê Duẩn chuyển sang từ trần, cũng có thể được xem là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời. Nghĩa là chấm dứt một thời kỳ thổ tả thượng hạng ngoại hạng.
Còn trong nội bộ đảng?
Tức là đảng viên chỉ phải khen lúc sống, sau đó quá mừng vì đã cất gánh nặng về một chế độ Stalin ngay trong nội bộ đảng:
Sau cùng, CNXH của Lê Duẩn, với tính nghi ngờ hết thảy mọi người, chính là cha đẻ của truyền thống chia ghế 3 vị trí lãnh đạo theo công thức cân bằng vùng miền, hầu tránh tái diễn một đảng nhỏ cầm quyền đảng lớn có tên là Duẩn-Thọ-Thanh.
Lê Duẩn nắm giữ chức Tổng bí thư lâu nhất lịch sử CSVN: 25 năm và 303 ngày. Vào những ngày cuối, lạm phát VN vượt lên mức kỷ lục: 774% (bảy trăm bảy mươi bốn phần trăm).
Phiên bản CNXH của Lê Duẩn chính là chiếc khẩu trang của Liên Xô có in hình 2 chữ S. Chữ S đầu là Stalin. Chữ S sau là lãnh thổ VN. Khi dân bịt vào thì miễn ăn và hết nói. Còn đảng viên bịt vào thì …vô phương nhận diện.
Đó là loại ga-tô CNXH dã thú.
*Nguyễn Văn Linh, gia nhập đảng cộng sản Đông Dương năm 1936, mãi 40 năm sau, tại Đại hội Đảng lần thứ IV thì được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, giữ chức Trưởng ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa của Trung ương.
Đến đại hội V, Nguyễn Văn Linh rút khỏi TW, nhường chỗ cho Võ Văn Kiệt. Về sau, đương sự giải thích với Võ Trần Chí rằng: “Bởi vì mình thấy các anh ấy không muốn mình ở đó nên mình xin rút…”. Các anh ấy, ở đây, chính là mỗi mình Lê Đức Thọ.
Tháng 7 năm 1983, nhân cơ hội Lê Duẩn đi nghỉ mát ở Liên Xô, còn Trường Chinnh, Phạm Văn Đồng và Võ Chí Công nghỉ mát ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh đã tổ chức cuộc “Hội Nghị Đà Lạt” kéo dài vừa đúng một tuần lễ, trước khi Lê Duẩn hồi giá.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Nguyễn Văn Linh được bầu vào BCH/TW, Ủy viên BCT, giữ chức Tổng Bí thư:
Chính NVL cũng biết rất rõ trận chiến giành ghế giữa Trường Chinh và Lê Đức Thọ thời bấy giờ:
Và không một ai tin chuyện nhái ễnh bụng thành bò:
Đó là một phần nội dung “đổi mới hay là chết” được trình bày trong Hội nghị Đà Lạt nói trên.
Nguyễn Văn Linh còn nổi tiếng với một số bài báo Những Việc Cần Làm Ngay, ký tên N.V.L. đăng trên tờ Nhân Dân.
Bài báo thứ nhì của N.V.L., ngày 26/5/1987, đề cập thẳng đến khái niệm “Im lặng đáng sợ” đối với việc giải quyết thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Cho thấy tính chất makeno của CNXH không phải chỉ mới xuất hiện gần đây.
Khẩu hiệu nổi tiếng thời bấy giờ là: “đổi mới thì sống, không đổi mới thì chết”. Và được các báo tuyên dương là “Người tìm đường trong mớ bòng bong”, “Chứng Nhân của một thời xé rào lịch sử”, “Người CS mẫu mực, sáng tạo”, “Thuyền trưởng đổi mới”, “Người mài sắc ngòi bút báo chí”, “Người dám nhổ cỏ dại cho lúa mọc lên”…
Tại buổi lễ kỷ niệm lần thứ 10 Quốc khánh Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Nguyễn Văn Linh tuyên bố Việt Nam sẽ rút hết quân khỏi Campuchia vào tháng 9/1989. Đây là điều kiện ắt có để thế giới thu hồi lệnh cấm vận kinh tế VN suốt 10 năm qua.
CNXH, bấy giờ, rõ ràng là đã dị dạng.
Một chuyện nhỏ được chính người trong cuộc kể lại: Sáu Hoa là “đệ tử” của NVL, mua được chiếc mô tô cũ…
Té ra, CNXH thời sinh tử cũng đã coi là bình thường chuyện huơ gậy thu tiền lẻ ngoài phố.
Nó là cái bánh ga-tô trừu tượng nhồi nhân đường thốt nốt, còn được gọi là ga-tô cứu giá.
*Còn, chuyện bạc chẵn, ở mức triệu đô, thì đã có đồng chí Đỗ Mười.
Nguyễn Văn Linh trao lại ngai vàng và cái di sản CNXH mạ vàng vừa nói trong một bối cảnh thế giới vừa vẽ lại bản đồ mà không đổ máu. Bấy giờ, phi liều mạng bất thành tổng bí là ở chỗ đó.
Đỗ Mười tên thật là Nguyễn Duy Cống, giữ chức Tổng bí thư BCH/TW đảng CSVN từ tháng 6, 1991 đến tháng 12, 1997 (có thể tham khảo thêm tư tưởng và quá trình hoạt động ở đây).
Không ai rõ có phải vì công năng leo tường và lảm nhảm đó, hay tiên tri được thành quả 91 tuổi vẫn có con mọn, mà Phạm Tiến Duật đã có bài thơ đểu ca ngợi Đỗ Mười: Một trái tim không thể nào già?
Thế nhưng theo Lê Khả Phiêu, thì trong cao điểm chiến tranh, Đỗ Mười đã từng trực tiếp chỉ đạo xây dựng đường ống dẫn dầu bí mật từ Lạng Sơn vào chiến trường miền Nam, bất chấp kiến thức.
Một người khác, từng là nạn nhân “tru di” của Lê Duẩn, đánh giá Đỗ Mười, như sau:
Phải tầm cỡ đó mới dám giương cao khẩu hiệu: “nhiệm vụ kinh tế là trung tâm và nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt” trước 4 nguy cơ đang nhe răng cười nụ với đảng: 1) Tụt hậu; 2) Chệch hướng XHCN; 3) Tham nhũng; và 4) Diễn biến hòa bình. (Các bạn vào google.com, gõ chữ DMC tower, và search, sẽ thấy cao ốc 18 tầng tráng lệ này. DMC là Đỗ Mười Center, do con rễ của ông ĐM đứng tên. Một blogger có nhà ở trong khu vực này đã cho biết lai lịch của tòa cao ốc.)
Vẫn theo lời khen đểu (lại thêm phản biền ngẫu) của Phiêu, người ta còn nhận ra ở Đỗ Mười các tính chất bỗ bã và ba phải:
Chỉ riêng một việc nhất quyết không thể ba phải: Đỗ Mười tuyên bố Đảng không thay đổi nhận định đối với vụ “nhóm xét lại chống Đảng”. Và, vẫn còn ngay đó một điều chắc nịch: Đảng là tao!
Hầu hết các tay trùm CSVN đều học được đặc tính chắc nịch đó từ Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, dựa vào yếu tố “khai quốc công thần”. Đỗ Mười có công gì, ngoài việc đề xuất danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng?
Một công trạng khác là hợp thức hóa nền tảng Tư Pháp Thả Rông cho thành truyền thống, song song với cái Nghị Định 31/CP 14/4/1997 để đời của Võ Văn Kiệt:
Bằng cách nào họ được ủng hộ trong đảng? Các tay trùm đảng đã dựng nên những hàng rào gia nô/bảo vệ/hộ lý/đàn em trung thành quanh mình, qua những động thái có mỹ danh là “tác thành”, tức là đề bạt chức quyền. Đỗ Mười còn dồn sức ra tay tác thành cho cả con rể và con nuôi. Từ đó, đám đệ tử kết cỏ ngậm vành này chính là những hàng rào chống lưng ngược cho họ:
Báo Lao Động ngày 21/4/2001 có bài tường thuật một cuộc phỏng vấn của báo nước ngoài. Ký giả hỏi: – Theo ngài thì chủ nghĩa xã hội có tương lai trong thế kỷ XXI không? TBT Đỗ Mười trả lời: – Chủ nghĩa xã hội nhất định có tương lai. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn phải phấn đấu nhiều…
Quả thế. Thứ CNXH của những tác giả thừa tham, thiểu trí và sính tàu (nói chữ là đậm đà màu sắc TQ) này, từng làm nền tảng sửa đổi hiến pháp vào năm 1992, đổi tên gọi Hội đồng Bộ trưởng (theo LX) thành chính phủ với người đứng đầu là thủ tướng, và khởi công đường dây 500kv vĩ đại tải điện ngược… tất cả đã hợp thành một bài đồng ca hát nhép, một bức tranh chép tập thể, dù phấn đấu đến lè lưỡi vẫn nhất quyết bám gót bậc thầy họ Đặng.
Nguy cơ thứ 2 nói trên chắc chắn đã bị vượt qua: CNXH của đảng không hề chệch hướng… Bắc!
Nội dung quyển sách 532 trang ca ngợi “Đồng chí Đỗ Mười – dấu ấn qua những chặng đường lịch sử” dường như chỉ cố tập trung nhấn mạnh vào một cốt lõi: Đổi mới phải có đuôi, để vẫy.
Nó là loại ga-tô lập thể, nhân lạp xường.
*Kế tiếp là loại CNXH vượt bỏ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bắt đầu từ những chuyến dã ngoại đường bộ sang tậnThành Đô, kéo dài cho tới chuỗi “chứng cứ không thể tranh cãi” đến cà lăm cà lặp.
Một số tài liệu gần đây tiết lộ: Có 2 chuyến khấu kiến bí mật thời Đỗ Mười do Hồ Văn Càn và Từ Đôn Tín sắp xếp: lần đầu là Mười-Anh-Kiệt, lần sau là Mười-Kiệt. Cả hai lần đều vượt mặt mọi thủ tục ngoại giao cổ điển.
Đó chính là lớp hắc ín tráng đường cho hàng hàng lớp lớp những quan điểm hảo hán chủ đạo và công khai hợp thức hóa tinh thần công hàm 1958 hay thái độ im lặng của những năm 1974 và 1988:
Lê Khả Phiêu từng viết bài ca ngợi Đỗ Mười là con người của hành động, nhưng thực ra, chính Phiêu mới xứng tầm cho tấm danh thiếp đó: Đỗ Mười qua Thành Đô dọn bãi, nhưng chính Phiêu mới là tay đổ bộ và ký mật ước dâng đất cho giặc, từ cuối năm 1999, và mở rộng đường hữu nghị bằng đầu gối cho Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng sau này.
Một số tài liệu chưa qua kiểm chứng nhưng ngập tràn trên mạng cho biết Phiêu từng ân cần gửi gắm một hạt mầm cộng sản nhí bên kia biên giới. Đổi lại là một chuỗi thông tin liên tục về tiến trình cắm mốc biên giới, về 16 chữ vàng, 4 tương, 4 tốt và nghe đâu có cả 2 tỷ USD.
Ít ai nhắc tới Tố Hữu thời này, nhưng vẫn trân trọng nhà thơ từng làm kinh tế đó như một tay tiên tri thần kỳ, qua hai câu thơ ảo diệu: Bên kia biên giới là nhà/Bên này biên giới cũng là quê hương.
Nông Đức Mạnh (2 nhiệm kỳ Tổng bí thư 2001-2011) không có gì gọi là ấn tượng trong thời gian tại chức. Chỉ sau khi phục viên mới nảy sinh một vài vấn đề nhạy cảm liên hệ tới cô bồ nhí của cậu quý tử thích ăn thịt bò tót mà Mạnh đã dày công cất nhắc vào TW và nâng tầm lên thành bí thư tỉnh ủy Bắc Giang.
Trong bối cảnh đó, CNXH trong ba triều đại này có cùng một nền tảng cơ bản (từ thời Đỗ Mười), cho dù những triền miên hứa hẹn làm sạch đảng không sánh nổi với nỗ lực một mình làm sạch vườn rau sân thượng, của Phiêu.
Chỉ riêng GS TS ngành xây dựng đảng Nguyễn Phú Trọng, nắm chức Tổng bí thư kể từ ngày 19/01/2011, là có một số hoạt động đình đám:
1. Dũng cảm tự xác nhận là tác giả cụm từ “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”;
2. Hãnh diện rằng cụm từ đó thâm thúy hơn cả cha đẻ của nó là thứ “Kinh tế thị trường đậm đà màu sắc TQ”;
3. Mạnh dạn trao đổi với các đồng chí Cuba một số ý kiến chung quanh vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội;
4. Long trọng xác định với đảng bạn về một nguyên tắc chiêm bao: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, chứ không phải cạnh tranh thắng – thua vì lợi ích vị kỷ của cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.
5. Thực lòng chia sẻ một ước mơ phổ quát đúng quy luật và có lồng tiếng thuyết minh: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
6. Rồi chân thành trần tình ở bè trầm, rằng: “Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm, làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam”.
Nghĩa là, túm lại, mọi thứ vẫn còn mờ mờ trước mặt, bởi cả đảng CSVN, từ Hồ Chí Minh xuyên suốt các triều đại khúc giữa, xuống tới hàng Nguyễn Phú Trọng, đều chưa biết rõ cái CHXH đó là gì, chưa biết nó ở đâu, chưa biết đường nào tới đó, và chưa biết làm sao cướp/chộp/núm được nó.
Chỉ biết chắc chắn mỗi điều: Đã là lãnh đạo thì phải tuyên bố quyết tâm đạt đến cái đích chưa biết đó kỳ được mới thôi.
Cho dù là bằng giá xương máu của hàng nhiều triệu nhân dân qua nhiều thế hệ.
Cho dù phải nhấn chìm đất nước và dân tộc xuống đáy nhân loại, từ thế kỷ 20 nối tiếp qua thiên niên kỷ thứ ba này.
Mục tiêu của lời tuyên bố, tất nhiên, không phải là để đến đó. Mục tiêu chính yếu và lớn nhất là để… vẫn ngồi đây. Theo kiểu Trần Văn Giàu có lần hóm hỉnh: “Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ cái ghế!”.
Rõ ràng, đó là chiếc bánh ga-tô siêu thực. Nó cần và nó cố chở đợi giới thưởng thức quen thói “nghĩ giản đơn và trong sáng như một đứa trẻ”, cứ chong mắt nhìn mớ sắc màu lung linh và tin là nó có thật.
Nhân dân ta cần phải làm gì để chấm dứt cuộc mặc cả giữ ghế đó?
26-05-2012 – Kỷ niệm 115 năm ngày phát hành quyển Dracula của Bram Stoker.
Blogger Đinh Tấn Lực