Ba Lan nằm cạnh bên Nga và đã từng bị Nga chiếm đóng và đô hộ rất nhiều lần trong suốt lịch sử lập quốc của họ. Lần gần đây nhất là 1948, Ba Lan bị Liên Sô đưa vào quĩ đạo của chế độ cộng sản.
Sau cuộc bầu phiếu quốc hội vào năm 1989, Ba Lan đã có được một quốc hội dân chủ đầu tiên, quốc hội nầy cho tổ chức bầu cử tổng thống năm 1990 và Chủ tịch Công đoàn Đoàn Kết Ba Lan là Lech Walesa đắc cử, xóa bỏ chính quyền do đảng cộng sản Ba Lan cai trị từ 1948.
Và kể từ 1990, Ba Lan đã bắt đầu thay đổi nền kinh tế của mình sang nền kinh tế thị trường. Năm 2010, lợi tức tính trên đầu người dân Ba Lan là trên 12 000 đô la Mỹ/ 1 năm; còn của VN là 1000 đô la /1 đầu người/1 năm (con số nầy rất đáng nghi ngờ vì do chính quyền CSVN gia tăng lên, để các ngân hàng và tổ chức tín dụng thế giới dựa vào đó mà cho mượn tiền thêm hàng năm, để họ có dịp bòn rút và tham nhũng chia chác nhau chừng 20-30% của số tiền được cho mượn).
Diện tích của Ba lan bằng diện tích của Viêt Nam. Dân số Ba Lan là 38 triêu, dân số VN là 90 triệu.
Tổng sản lượng quốc gia của Ba Lan là 468 tỉ đô la, trong khi của Việt Nam chỉ có 103 tỉ đô la.
Ba Lan và Việt Nam hầu như được Mỹ bang giao chính thức từ 1994 và 1995, Mỹ tin tưởng ở Ba Lan nhiều hơn là tin tưởng chính quyền Việt Nam. Theo bài nấy, ta thấy Mỹ đồng ý bán phản lực cơ chiến đấu F16 cho Ba Lan, nhưng Mỹ không bao giờ bán vũ khí cho Việt Nam vì họ thừa biết tính tráo trở và hai mặt của chính quyền nầy.
Obama một ngày ở Ba Lan và những thỏa thuận
28/05/11
tác giả: Mạc Việt Hồng
Tổng thống Obama và thủ tướng Donald Tusk. Ảnh AGENCJA GAZETA
Tổng thống Barack Obama vừa kết thúc chuyến thăm 1 ngày tới Ba Lan, đó cũng là chặng dừng chân cuối cùng trong chuyến công du châu Âu 1 tuần của ông. Đây là lần đầu tiên Obama tới Ba Lan. Thực ra, một năm trước, khi Tổng thống Ba Lan tử nạn vì tai nạn máy bay, Obama đã muốn tới dự tang lễ nhưng chuyến bay của ông cũng như của hầu hết các nguyên thủ quốc gia khác đã bị hủy bỏ khi không phận châu Âu phải đóng cửa gần hết vì bụi núi lửa.
Mối quan hệ đặc biệt giữa Ba Lan và Mỹ từ hơn 2 thập kỷ qua đã rơi vào một khoảng lặng trong mấy năm gần đây và người Ba Lan cảm giác rằng họ đã bị người đồng minh lâu năm bỏ rơi. Chuyến thăm của Obama vì thế mang một sứ mệnh đặc biệt.
Đáp xuống sân bay lúc 17h30′ chiều qua, 27/5/2011, sau những nghi lễ đón tiếp khá giản đơn và đặt hoa tại tượng đài Chiến sĩ Vô danh, Obama đã có bữa ăn tối với nguyên thủ quốc gia của 21 nước thuộc khu vực Trung và Đông Âu. Các vị khách VIP này đã có mặt ở Warsaw từ sáng thứ Sáu để cùng nhau bàn thảo về việc áp dụng những kinh nghiệm chuyển hóa dân chủ của Đông Âu cho khu vực các nước bắc Phi, nơi vừa thoát thai khỏi chế độ độc tài bằng các cuộc cách mạng Hoa Nhài.
Obama và tổng thống Ba Lan, Bronisław Komorowski
Kế tiếp, ngày thứ Bẩy, Obama dành trọn thời gian còn lại cho cuộc hội đàm với tổng thống Ba Lan, sau đó là cuộc gặp gỡ với thủ tướng Donald Tusk và các chính trị gia Ba Lan. Có mặt trong cuộc gặp thân tình này là chủ tịch Thượng viện và Hạ viện Ba Lan cùng hàng chục chính khách có tên tuổi với các khuynh hướng chính trị khác nhau. Người duy nhất vắng mặt, dù được mời, là cựu Tổng thống Lech Wałesa, ông đưa ra thông báo chiều qua vì lý do không muốn hủy bỏ một công việc đã được lên kế hoạch từ trước đó. Trước khi kết thúc chuyến thăm, ông đã gặp gia đình các nạn nhân của thảm họa Smolensk và ông nói sẽ quay lại Ba Lan vào năm 2013 khi khánh thành khu tưởng niệm người Do Thái.
Trong phát biểu của mình, Obama nói, ông luôn cảm thấy trong lòng một phần Ba Lan vì ông sinh sống tại Chicago nơi có đông đảo kiều dân Ba Lan. Ông cũng nói, Ba Lan là một trong những đồng minh gần gũi, thân cận nhất của Mỹ và ông tin rằng, hàng triệu người Mỹ cũng có cảm nhận như vậy. Obama nhấn mạnh rằng, sự phát triển về kinh tế và vững mạnh về quân sự của châu Âu là phù hợp với các lợi ích của Mỹ. Ông ngợi khen những thành tựu về kinh tế và dân chủ mà đất nước Ba Lan đã đạt được và cho rằng đó là một điển hình không chỉ với các nước trong khu vực mà với cả thế giới.
Mặc dù chỉ có mặt ở Ba Lan vỏn vẹn 22 giờ, song những thỏa thuận đôi bên đạt được, được giới bình luận ghi nhận là đáng kể:
Về kinh tế: Mùa thu này, 2 nước dự tính mở một cuộc hội thảo với sự tham dự của đại diện bộ Kinh tế và các cơ quan chính phủ đôi bên nhằm xem xét một số điều luật, thủ tục để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương.
Hợp tác về năng lượng: Các quan chức chính phủ cấp cao của 2 nước trong thời gian ngắn tới đây sẽ có cuộc bàn thảo về hợp tác năng lượng, chủ yếu là phía Mỹ đầu tư vào khai thác khí đốt từ đá mà trữ lượng của nó được đánh giá là có thể đủ cho Ba Lan dùng trong vài trăm năm, thoát khỏi sự phụ thuộc vào thị trường khí đốt của Nga.
Hợp tác quân sự: Mỹ sẽ giúp đào tạo phi công lái máy bay F-16 cho Ba Lan và sẽ xây dựng Ba Lan thành trạm trung chuyển và bến đáp cho các máy bay F-16 cũng như máy bay vận tải loại C-130 của Mỹ. Hai bộ trưởng Quốc phòng cũng đã ký một bản thỏa thuận để tạo điều kiện cho sự tiếp cận giữa các công ty sản xuất vũ khí ở 2 quốc gia.
Lá chắn tên lửa: Quyết định từ bỏ hệ thống này của Obama 2 năm trước đây đã ít nhiều làm sứt mẻ tình cảm của dân chúng Ba Lan đối với Mỹ và báo chí Ba Lan đã không tiếc lời đưa ra những bình luận gay gắt. Nay ông Obama cho biết, tới năm 2018 Mỹ sẽ xây dựng hệ thống “phòng chống tên lửa từ mặt đất“.
Xây dựng lực lượng đặc nhiệm: Lầu Năm Góc sẽ hỗ trợ xây dựng lực lượng đặc nhiệm của Ba Lan để tới năm 2014 Ba Lan có thể phối hợp hành động trong các chiến dịch của biệt kích Mỹ.
Mối quan tâm quốc tế chung: Từ những kinh nghiệm chuyển hóa của Ba Lan, hai nước quyết định thành lập một đoàn cố vấn và đội ngũ chuyên gia để giúp Tunesia xây dựng nền kinh tế thị trường và chuyển đổi dân chủ.
Đồng thời, Obama bày tỏ mong muốn Ba Lan hỗ trợ cho các biện pháp trừng phạt của EU đối với chế độ độc tài ở nước láng giềng Belarus (Bạch Nga). Mỹ cũng dự định cung cấp tài chính cho quỹ “Đoàn kết Quốc tế” của Ba Lan với mục đích cổ xúy cho sự hình thành xã hội dân sự ở Belarus. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ sẽ hợp tác với Ba Lan để phát các chương trình bằng tiếng Belarus hướng vào lãnh thổ nước này.
Thị thực cho công dân Ba Lan: Sau khi chế độ cộng sản ở Ba Lan sụp đổ, chính quyền dân chủ non trẻ đã đơn phương miễn thị thực cho công dân Mỹ. Nhưng sau nhiều năm chờ đợi và dù đã là thành viên của Liên minh châu Âu, tham gia vào hiệp ước Schengen, công dân Ba Lan vẫn phải xin visa vào Mỹ. Ba Lan là một trong 3 nước cuối cùng còn sót lại ở EU (2 nước kia là Bungaria và Rumani) chưa được miễn thị thực.
Lần này, Obama nói ông sẽ ủng hộ một dự luật đã được đệ trình lên Quốc hội Mỹ từ tháng 3/2011 về việc bãi bỏ thị thực cho công dân của một số nước, trong đó có Ba Lan. Điều luật này quy định, bất cứ nước nào cũng có thể được miễn thị thực vào Mỹ nếu các công dân của nước đó sau khi sang Mỹ không có quá 3% ở lại sinh sống bất hợp pháp khi đã hết hạn visa.
Hợp tác chống khủng bố: Ba Lan và Mỹ đã hoàn thành việc đàm phán hiệp định về trao đổi thông tin phục vụ cho công tác chống khủng bố. Chi tiết của hiệp định hiện không được công bố.
Trao đổi học sinh và sinh viên: Hai bên đã thảo thuận một chương trình dài hạn nhằm trao đổi sinh viên và học sinh trung học giữa 2 nước.
Trong lịch sử quan hệ giữa 2 quốc gia, Barack Obama là Tổng thống thứ 7 của nước Mỹ đã tới thăm Ba Lan nhưng theo bình luận của giới truyền thông, sự đón tiếp dành cho ông dường như nồng hậu, ấm cúng nhất. Không quá rườm rà và cứng nhắc trong các nghi thức ngoại giao, người ta thấy một Obama với phong cách dung dị và cởi mở giữa bầu không khí thân tình của những người chủ nhà.
Đón nhận vị trí chủ tịch Liên minh Châu Âu trong năm nay và với những bước tiến mới trong quan hệ song phương Ba Lan- Mỹ, đất nước của Chopin (Sô- panh) một lần nữa có thể tự hào vì những kỳ tích mà mình đã đạt được sau những năm dài đen tối dưới ách cộng sản.
Bài viết sử dụng tư liệu từ Wyborcza và PAP.
Nguồn
—
GIÁO-HOÀNG JOHN PAUL II
VÀ SỰ SỤP ĐỔ
CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG-SẢN BA-LAN
I/ TỔNG-QUÁT:
Từ sau khi chế độ cộng-sản Ba-Lan sụp đổ, vào tháng 12 năm 1990, có nguồn dư-luận hầu khắp thế-giới cho rằng chính Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II, vốn là một người Ba-Lan, đã có công lật đổ bộ máy cai-trị vô-thần ấy, để giải-phóng cho quê-hương và đồng-bào mình.
Trước đó, đảng cộng-sản Hung-Gia-Lợi đã bị giải-tán, dân-nhân nước này thoát ách cộng-sản kể từ tháng 10 năm 1989, nhất là các nước Xô-Viết Đông-Âu trong Liên-Xô (USSR=United Soviet Socialist Republics= Liên-Bang Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Xô-Viết) đã bị giải-thể từ đầu năm.
Chỉ chú-trọng vào Ba-Lan, nguồn dư-luận nói trên cho rằng Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II cũng là người đã chấm dứt luôn cả các chế-độ cộng-sản khác tại Đông-Âu (?).
Cái công-lao nói đó đã được các giới ủng-hộ Ngài khắp nơi ca-ngợi tối-đa, thậm-chí có một số người Việt-Nam chống-Cộng tin rằng nếu có một Giáo-Hoàng là người Việt-Nam thì cộng-sản Việt-Nam chắc-chắn sẽ sớm tiêu-vong trong một ngày rất gần.
II/ HOẠT-ĐỘNG CHỐNG CS BA-LAN CỦA GIÁO-HOÀNG GIOAN PHAOLỒ II (THEO GIỚI TRUYỀN-THÔNG NGƯỜI VIỆT HẢI-NGOẠI):
1/ Theo nhà báo TÚ GÀN:
“Saigon Nhỏ ngày 8.4.2005
Một cách đấu tranh kỳ lạ của ĐGH John Paul II
Sau khi Đức Giáo Hoàng John Paul II qua đời, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới … đều đã bày tỏ cảm tình yêu mến và ca ngợi về những gì ngài đã đem lại cho thế giới trong thế kỷ qua. Các cơ quan truyền thông đã dùng khá nhiều thì giờ và gíấy mực để nói về Đức Giáo Hoàng, trong đó có bàn đến việc Đức Giáo Hoàng đã góp phần vào việc làm sụp đổ các chế độ cộng sản ở Đông Âu. Sự thật như thế nào?
Cho đến nay, các sử liệu liên quan đến vấn đề này vẫn chưa được công bố, nên chúng ta khó có thể bàn đến một cách chính xác được. Chúng ta chỉ biết Đức Giáo Hoàng đã đến thăm hai nước cộng sản là Ba Lan và Cuba. Nhân khi thế giời đang tiển đưa ngài, chúng ta thử tìm hiểu xem Đức Giáo Hoàng đã làm gì ở hai nước này và ảnh hưởng của ngài ở đó ra sao. Tuy nhiên, trước khi đề cập đến hai biến cố đó, chúng tôi xin nói qua về cách nhìn của Đức Giáo Hoàng đối với chủ nghĩa cộng sản.
MỘT CÁI NHÌN VỀ CỘNG SẢN
Đức Giáo Hoàng John Paul II có tên thật là Karol Josef Wojtyla, sinh ngày 18.5.1920 tại Wadowice, Ba Lan…
Từ năm 1948 đến 1951, cha Karol Wojtyla phụ trách giáo xứ Niegowic… Cậu Stanislaw Wyporeck, người thư ký đánh máy của linh mục, cũng được yêu cầu báo cáo cho họ (CS) những điều linh mục đã làm hàng ngày, nhưng cậu từ chối. Một hôm, cảnh sát đến bắt cậu và đưa đến một làng gần đó đánh đập và buộc cậu thú nhận đã tham gia một tổ chức bí mật chống lại chế độ. Sáng hôm sau, Stanislaw trở về đã run rẩy và sợ hải kể lại mọi chuyện cho Linh mục Wojtyla nghe. Ngài đã an ủi cậu: “Stanislaw, đừng lo, họ sẽ tự kết liểu bản thân họ thôi.” Sau đó, ngài đã nói với những người khác trong nhóm: “Chủ nghĩa xã hội không đi ngược lại những lời răn dạy của Giáo Hội, thế nhưng phương pháp của những người cộng sản thì chống lại Giáo Hội…”
Ít năm sau Linh mục Wojtyla về làm cha xứ ở Krakow và cậu Stanislaw đã đến thăm ngài. Thấy trên giá sách của ngài có các tác phẩm của Marx, Lénin và Stalin, cậu đã hỏi: “Cha đã chuyển sang tư tưởng khác rồi sao?” Ngài trả lời: “Stanislaw! Nếu con muốn hiểu kẻ thù, con phải biết họ viết gì.” Ông khuyên cậu nói thật với cảnh sát những gì mà giới trẻ trong giáo xứ đang làm. Stanislaw kể lại: “Ông nói: Những điều xầu xa phải được khắc phục bởi những điều tốt đẹp. Chúng ta cần phải tạo ra một tấm gương tốt. Chúng ta cần thể hiện sự khiêm nhường của mình.” Đây là một cách chống cộng mà Linh mục Wojtyla muốn lưu ý cậu.
Trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, xuất bản năm 1995, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã nói về chủ nghĩa cộng sản như sau:
“Điều mà chúng ta gọi là chủ nghĩa cộng sản thì thực ra đã có lịch sử rồi. Đó là lịch sử phản kháng khi đương đầu với bất công mà tôi đã nhắc đến trong thông điệp Laborem Exercens – Sự phẫn nộ chính đáng của giới thợ thuyền, tiếp theo đã biến thành một ý thức hệ. Những sự phản kháng này cũng đã trở thành một phần trong các giáo huấn của Giáo Hội… Thực tế, chính Đức Giáo Hoàng Leo XIII, theo một nghĩa nào đó, ngài đã tiên đoán chế độ cộng sản sụp đổ rồi, một sự sụp đổ mà nhân loại, nhất là Âu Châu, phải trả một giá quá đắt, bởi vì phương thuốc chữa trị, theo ngài viết từ năm 1891 trong bức thông điệp này, có thể chứng tỏ còn độc hại hơn là chính con bệnh. Đức Giáo Hoàng (Leo XIII) đã nói điều này với tất cả thái độ nghiêm chỉnh và uy quyền của bậc Thầy trong Giáo Hội.”
Trong một đoạn khác, ngài đã viết:
“Vì thế, thật quá giản lược hóa khi cho rằng Thiên Chúa Quan Phòng đã trực tiếp gây ra cuộc sụp đổ chế độ cộng sản này. Theo một nghĩa nào đó, chủ thuyết cộng sản như là một hệ thống đã tự nó sụp đổ. Chế độ đó sụp đổ chính là hậu quả của những lầm lạc và lạm dụng vô độ của chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản chứng tỏ là “một phương thuốc còn nguy hiểm hơn chính con bệnh.” Chủ thuyết này đã không thành công khi muốn đem lại một cuộc đổi mới xã hội thật sự, nhưng đã trở thành một mối đe dọa mạnh mẽ và một thách đố kinh hoàng cho toàn thế giới. Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ vì những suy yếu nội tại của chính nó.”
TRƯỜNG HỢP CỦA BALAN
Ảnh hưởng của Đức Giáo Hoàng đối với sự sụp đổ của chế độ cộng sản Ba Lan đã được diễn tả khá sinh động trong cuốn “His Holiness John Paul II and The Hidden History of Our Time” (Đức Giáo Hoàng John Paul II và Lịch Sử Bí Ẩn của Thời Đại Chúng Ta) của Carl Bernstein và Marco Politi …
Đức Giáo Hoàng đã đến thăm Balan lần thứ hai vào năm 1983, khi phong trào Công Đoàn Đoàn Kết của Lech Walesa đang dấy lên khắp nơi và chính quyền Cộng Sản Ba Lan đã phải ban hành lệnh thiết quân luật và ra lệnh giải tán Công Đoàn để ngăn ngừa một cuộc nổi dậy. Trong bối cảnh đó, chính quyền cộng sản Ba Lan và Tòa Thánh Vatican đã đạt được một thỏa thuận căn bản để Đức Giáo Hoàng có thể đến thăm Ba Lan: Chuyến viếng thăm này chỉ dành riêng cho vấn đề tôn giáo mà thôi…
Đức Giáo Hoàng đã đến Ba Lan ngày 16.6.1983. Sau khi quỳ xuống hôn đất quê hương, ngài đã lên kêu gọi những người đang bị bắt bớ ở Ba Lan:
“Cha kêu gọi những người bị đày đọa hãy đến đây với cha. Cha kêu gọi lời này thay lời Chúa Jesus: Cha đã bị ốm và các con hãy đến thăm cha. Cha bị giam cầm, các con hãy đến với cha. Bản thân cha không thể tới thăm các con chiên đang bị giam cầm (đám đông xúc động), đến thăm tất cả các con chiên đang bị đày đọa. Nhưng cha kêu gọi họ hãy đến với cha trong tinh thần giúp đỡ cha, như họ vẫn luôn làm.”…
Tướng Jaruzelski nhớ lại: “Đức Giáo Hoàng đã không đưa ra một tối-hậu-thư… Ngài nói về giá trị của con người. Ngài nói rằng nhà nước phải quan tâm đến từng cá nhân con người, rằng đối thoại luôn luôn phải cần đến, và rằng tất cả các Công Đoàn có quyền tồn tại.” Ngài không tranh-luận quyết-liệt, mặc dầu ngay từ đầu hai bên đã có những bất đồng nghiêm trọng. Tướng Jaruzelsk thưa với Đức Giáo Hoàng: “Xin ngài dùng ảnh-hưởng của ngài giúp chúng tôi cô-lập phái quá-khích trong Công-Đoàn Đoàn-Kết, giúp chúng tôi bỏ lệnh cấm-vận của phương Tây, nhất là Mỹ.” Đức Giáo-Hoàng trả lời: “Tôi quan-tâm đến việc đạt tới một tình-trạng bình-thường càng sớm càng tốt”…
Cũng như đa số người Việt, người công giáo Balan muốn Đức Giáo Hoàng lên tiếng chống chế độ cộng sản Ba Lan một cách nào đó để đưa chế độ này đến chỗ sụp đổ. Họ muốn ngài nói tiếng “Solidarity” biểu tượng cho phong trào Công Đoàn Đoàn Kết. Các ký giả Tây phương cũng vậy. Nhưng ngài đã không nói theo cách họ trông đợi mà giảng về một đề tài phức tạp hơn: “Hãy phân biệt rõ cái tốt và cái xấu”… Ngài nói: “Tùy vào các con mà có thể ngăn được sự suy đồi luân lý hay không, mà nói lên sự đoàn kết giữa con người hay không.”
Buổi tối, hàng chục ngàn người đã diễn hành… Khi đi ngang qua tòa nhà của Trung Ương Đảng Cộng Sản Balan, đoàn thanh niên đã hô to: “Solidarity! Solidarity! Walesa! Dân Chủ!.” Khi họ tập trung lại, Đức Giáo Hoàng nói:
“Con người được kêu gọi để chiến thắng chính mình. Chính các vị thánh và các chân phước sẽ chỉ lối cho chúng con đường chiến thắng – sự chiến thắng mà Thiên Chúa đã đạt được trong lịch sử nhân loại.” Sự chiến thắng ấy đòi hỏi “lối sống trong sự thật, nghĩa là biết yêu thương người lân cận, nghĩa là biết đoàn kết giữa con người, nghĩa là trở về với lương tâm, gọi thẳng tên sự lành và sự dữ chứ không mập mờ…, nghĩa là phát triển nơi sự lành và tìm cách sửa sai sự dữ từ chính nơi ta.”
Khi đến tu viện Black Madona ở Czestochova, Đức Giáo Hoàng… nói với giới trẻ Ban Lan:
“Các con đến với Đức Mẹ mang theo trái tim thương tích bởi những sầu muộn, có khi cả những thù hận. Sự hiện diện của các con biểu lộ được một sức mạnh chứng tá khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng khi thấy người công dân Balan dùng chính bản thân làm phương tiện tranh đấu, với Phúc Âm trong tay, với lời kinh trên môi. Những hình ảnh ấy vào năm 1980 đã làm cho trái tim và lương tâm thế giới vô cùng xúc động.”
Sau đó, trước sự chứng kiến của khoảng một triệu người, Đức Giáo Hoàng dâng lên Đức Mẹ tấm đai thắt lưng có một lỗ đạn do Ali Agca bắn vào ngài tại Công Trường Thánh Phêrô. Cả một khối người chăm chú, ngất ngất. Họ hô lên: “Xin ở lại với chúng con! Xin ở lại với chúng con!”…
Có người cho rằng các chế độ cộng sản Đông Âu đã sụp đổ là do những mục nát từ bên trong. Nhưng trong thập niên 1980s hai chế độ cộng sản Việt Nam và Cuba còn mục nát hơn các chế độ cộng sản Đông Âu. Hơn nữa, CSVN đã sống bám vào các chề độ cộng sản Đông Âu và đã trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới. Tại sao hai chế độ này đã không sụp đổ?
Tờ “Inside the Vatican” (Bên trong Vatican) số ra ngày 4.4.2005, cho biết trong một cuộc phỏng vấn, Đức Hồng Y Joachim Meisner, Tổng Giám Mục Cologne ở Đức, người đã từng sống dưới thời cộng sản Đông Đức, cho biết người dân Đông Đức ghi ơn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vì ngài đã giúp làm sụp đổ chế độ cộng sản…
TRƯỜNG HỢP CỦA CUBA
Năm 1998, Đức Giáo Hoàng đã đến thăm Cuba … (vân vân)”
Tú Gàn
2/ Theo nhà văn TRẦN PHONG VŨ:
“ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH CS.
CỦA CÔNG GIÁO & ĐGH JP II
Quả vậy… Với tư cách là con dân đất nước, Đức Gioan-Phaolô 2 đã tranh đấu ôn hòa cho nhân quyền của người dân Ba Lan… Ngài cực lực tranh đấu cho nhân quyền của mọi người dân trên thế giới, trong đó có quyền được sống tự do theo niềm tin tôn giáo của mình trong sự kính trọng mọi tôn giáo anh em.
Rất nhiều người, thiện cảm với Giáo Hội Công Giáo La Mã cũng có mà ác cảm hoặc chống đối cũng có, thường nghĩ như thật rằng: “Vatican là một ổ gián điệp thế giới, đã từng ngấm ngầm cấu kết với đế quốc Mỹ để ‘chống cộng’ đến kỳ cùng. Và cộng sản mà có sụm ba chè là cũng nhờ có bàn tay lông lá của Mỹ và nhất là mật vụ của Vatican nhúng vào”. Đúng hay sai là một chuyện, nhưng quan điểm của vị giáo chủ Vatican thì hoàn toàn khác. Thực vậy, 3 tháng sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, Đức Gioan-Phaolô 2 tuyên bố vào ngày 21/02/1990 trong khi tiếp đoàn người hành hương tại Vatican: “Chính Thiên Chúa đã thắng ở Phương Đông”…
Ngược đời ở chỗ là Lòng Tin cho thấy có bàn tay Thiên Chúa trong những biến cố xảy ra trong trần thế, nơi con người và xã hội loài người, do bởi chính con người chủ động làm ra. Trong quyển “Bước vào ngưỡng cửa hy vọng” xuất bản năm 1994, Đức Gioan-Phaolô 2 giải thích nguyên do trước mắt, có thể kiểm chứng được, của sự tan rã của chế độ cộng sản Liên Xô: “Chính hệ thống cộng sản đã, một cách nào đó, tự nó làm cho nó sụp đổ. Sự sụp đổ của nó là hậu quả của những hành động sai lầm và quá khích của nó. Muốn chữa bệnh, nó lại nguy hại hơn chính con bệnh. Trở thành một đe dọa hùng hậu và một thách đố ghê gớm (đối với xã hội), nó lại không thành công cải tạo thật sự xã hội. Cộng sản tự suy sụp, do bởi nội lực của nó yếu kém.”
Không “chống cộng” và không “dương uy”
Tuy vậy, nhiều người vẫn còn nghĩ rằng Đức Gioan-Phaolô 2 có đóng một vai trò trực tiếp và quan trọng trong vụ này. Họ cho rằng Ngài phải là một người tài trí xuất chúng, đầy mưu lược, “chống cộng cùng mình”, bởi vì Ngài là giáo chủ một tôn giáo không đội trời chung với cộng sản và nhất là vì Ngài đến từ một đất nước mà người công giáo có tiếng là thành phần chống cộng lì nhất thế giới. Không, không hoàn toàn như vậy đâu! Ngài và Giáo Hội Công Giáo ngày nay nhất định không “chống cộng” theo cái nghĩa phe đảng, bè phái, cục bộ, giáo điều, bất bao dung, điên rồ, cố chấp trong thái độ “không đội trời chung”, và càng không theo cái nghĩa “tay sai”, “vụ lợi” hay “bán linh hồn” cho ai cả!”
3/ Theo nhà báo TRẦN ĐẠI HẢI:
“Fri, 24 Feb 2006 15:02:57 +0100
TRAN DAI HAI : Danh Tong Thong Dien
Đánh tổng thống điên?
Ngày 15.2.2006 Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice đã đề nghị quốc hội Mỹ chi ngân khoản 75 triệu Mỹ kim để sử-dụng vào việc ‘dân chủ hoá’ Iran.
Ngân sách này sẽ được bổ sung vào ngân khoản 60 triệu mà quốc hội Mỹ đã thông qua cho cho năm tài khoá 2006… Bộ ngoại giao Mỹ hy vọng là sẽ khuấy động lên một phong trào chính trị tại Iran tương tự phong trào Công đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan trong thập niên 80.”
*
Theo 2 bài báo tiêu-biểu của 2 tác-giả Ky-Tô-Giáo trích trên, thì:
a) Ông Tú Gàn viết: “Trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã nói về chủ nghĩa cộng sản như sau: “thật quá giản lược hóa khi cho rằng Thiên Chúa Quan Phòng đã trực tiếp gây ra cuộc sụp đổ chế độ cộng sản này.
Trước đó, trong bài “Chỉ Làm Công Cụ Thôi” đăng trên “Saigon Nhỏ” ngày 13-8-2004, ông Tú Gàn đã viết: Ðức Giáo Hoàng không hề “lên tiếng chống lại những hành vi chà đạp của nhà nước CS đối với tự do tôn giáo và những phẩm giá khác của con người cũng như những tương quan công lý và đạo đức trong xã hội” như Linh mục Trần Xuân Tâm và nhóm Diễn Ðàn Giáo Dân đã đòi hỏi Ðức Hồng Y Nguyễn Vãn Thuận và HÐGMVN…”
b) Ông Trần Phong Vũ viết: “nhiều người vẫn còn nghĩ rằng Đức Gioan-Phaolô 2 có đóng một vai trò trực tiếp và quan trọng trong vụ này. Họ cho rằng Ngài phải là một người… Không, không hoàn toàn như vậy đâu!”
Cũng như ông Tú Gàn, ông Trần Phong Vũ đã trích dẫn một đoạn văn nổi bật của chính Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II viết: “Chính hệ thống cộng sản đã, một cách nào đó, tự nó làm cho nó sụp đổ. Sự sụp đổ của nó là hậu quả của những hành động sai lầm và quá khích của nó… Cộng sản tự suy sụp, do bởi nội lực của nó yếu kém.”
Ông Trần Phong Vũ còn ngụ ý nói là cố Giáo-Hoàng không hợp-tác với Hoa-Kỳ trong vụ này.
Trong lúc đó, theo bài báo của ông Trần Đại Hải thì:
“Ngày 15.2.2006 Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice… Bộ ngoại giao Mỹ hy vọng là sẽ khuấy động lên một phong trào chính trị tại Iran tương tự phong trào Công đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan trong thập niên 80.”
Ông Trần Đại Hải xác-nhận là có bàn tay khuấy-động của Hoa Kỳ trong vụ Ba-Lan.
*
Về sự mâu-thuẫn hoặc khó hiểu này, ông Tú Gàn viết: “Cho đến nay, các sử liệu liên quan đến vấn đề này vẫn chưa được công bố, nên chúng ta khó có thể bàn đến một cách chính xác được.”
III/ BA-LAN KỶ-NIỆM 25 NĂM THOÁT ÁCH CỘNG-SẢN (1990-2005):
Ngày 30-8-2005, Ba-Lan hân-hoan tổ-chức Lễ Kỷ-Niệm 25 Năm Công-Đoàn Đoàn-Kết tại nhiều thành-phố ở Bắc Ba-Lan, địa-điểm chính là Gdansk, cái nôi của phong-trào và lực-lượng chống Cộng do Lech Walesa lãnh-đạo; và chính Lech Walesa (người lật đổ cộng-sản, lên làm Tổng-Thống từ 1990 đến 1995) đến chủ-tọa và thuyết-trình. Đương kim Tổng thống Balan, ông Alexandre Kwasniewski (trước kia là cộng-sản) có đến phát-biểu ở phần khai-mạc…
Trong số quan-khách (có cả phái đoàn Việt-Nam); có ông Dan Fried, phụ tá Ngoại-Trưởng Hoa-Kỳ đặc trách Âu châu và Âu Á sự vụ, và tiến sĩ Zbigniew Brzezinski, cựu cố vấn an ninh quốc gia Hoa-Kỳ, lên thuyết-trình…
Nhà báo ĐÔNG GIANG TỬ đã viết bài tường-thuật tại chỗ.
Điều đáng nói hơn hết là, theo bài tường-thuật, nhân-vật chủ-chốt Lech Walesa, trong suốt buổi lễ, nhất là trong bài nói chuyện, đã không đề-cập gì đến, dù chỉ cái tên, nói gì công-trạng, của cố Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II trong sự-nghiệp giải-thể chế-độ cộng-sản Ba-Lan.
Không lẽ ông Lech Walesa không nhớ đến cố Giáo-Hoàng, mới chết vào ngày 02-4-2005, trước đó chưa đầy 5 tháng, hoặc giả ký-giả Đông Giang Tử ghi sót?
Nhưng đó là chuyện nhỏ, của cá-nhân. Còn về chuyện lớn, của lịch-sử?
*
* *
Về các sử-liệu liên-quan đến vấn-đề này, tôi sẽ thử tìm hiểu thêm và trình-bày sau, ít nhất là về các điểm sau đây:
— Phần đóng góp của cố Giáo-Hoàng Gioan PhaoLồ II, mà kẻ thì nói là có, người thì nói là không; ngay chính Ngài cũng không nhận công của mình mà nói là do Thiên-Chúa an-bài và do cộng-sản tự-hủy;
— Phần đóng góp của Hoa-Kỳ (đặc-biệt cơ-quan CIA); v.v…
Còn về lý-do tại sao Liên-Xô để yên cho Ba-Lan, là một nước chư-hầu của Liên-Xô, vượt thoát ra khỏi gọng kìm của mình, mà không có một phản-ứng nào cả, thì tôi tạm ghi dưới đây một ít dấu mốc thời-gian, để tự chúng giải-đáp câu hỏi này:
1970: Kinh-tế, huyết-mạch chính của Liên-Xô bắt đầu trì-trệ. Tại Ba-Lan, có Lech Walesa cùng các công-nhân khác tại bến tàu Gdonsk đòi lập công-đoàn tự-do (không quốc-doanh), bị chính-quyền cộng-sản bắt.
1971: Liên-Xô bớt căng-thẳng với Trung-Cộng; đồng-thời Tổng-Bí-Thư Brezhnev mở các cuộc đàm-phán với Hoa-Kỳ.
1972: Tổng-Thống Hoa-Kỳ Nixon viếng Mạc-Tư-Khoa; hai bên ký thỏa-ước hạn-chế vũ-khí chiến-lược (SALT-1), mở đầu thời-kỳ hết căng-thẳng.
1973: Chiến-tranh Việt-Nam chấm dứt, chấm dứt đụng-độ quân-sự giữa hai Khối; Brezhnev viếng Tây-Đức vào tháng 5, viếng Hoa Kỳ vào tháng 6.
1973: bắt đầu tấn-công điệp-báo vào 2 nước cộng-sản Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi, từ tháng 9.
1974: Tổng-Thống Nixon lại viếng Liên-Xô; Breznev nhượng-bộ Hoa-Kỳ (triển hạn thỏa-ước SALT-1, cải-thiện sinh-môi, nới rộng thương-mại, v.v…) để hưởng quy-chế tối-huệ-quốc. Các sắc-tộc thuộc Liên-Xô đòi tự-trị.
1975: Kinh-tế Liên-Xô bắt đầu khủng-hoảng trầm-trọng, nhất là vì chạy đua không-gian, ảnh-hưởng xấu trên mọi lãnh-vực. Liên-Xô và Hoa-Kỳ hợp-tác thám-hiểm không-gian.
1978: Walesa cùng các đồng bạn lập nhiều công-đoàn tự-do tại nhiều nơi. Hồng-Y Karol Wojtyla được bầu làm Giáo-Hoàng ngày 16-10, lấy danh-hiệu là John Paul II.
1979: Brezhnev ký thỏa-ước SALT-2 với tổng-thống Hoa-Kỳ Carter vào tháng 6, nhưng (không thông-qua Bộ Chính-Trị Đảng mà tự-ý) can-thiệp vào Afghanistan vào tháng 12, nên bị Hoa Kỳ cấm vận lúa gạo, khiến Liên-Xô suy-yếu thêm.
1979: Đồng-thời, Gorbachev (thuộc thế-hệ mới, sinh sau Cách-Mạng 1917) vào Bộ Chính-Trị Trung-Ương Đảng, coi về Tổ-Chức (Nhân-Sự), có đầu óc phóng-khoáng, lãnh-hội tinh-hoa sinh-hoạt chính-trị Tây-Phương (cầm đầu phái-đoàn đi Tây-Đức năm 1975, đi Canada hội-đàm với thủ-tướng Trudeau năm 1983, đi Anh gặp nữ-thủ-tướng Thatcher năm 1984), chú-trọng nâng-đỡ thế-hệ trẻ.
Giáo-Hoàng John Paul II viếng Hoa-Kỳ lần đầu tiên vào tháng 10 (gặp Tổng-Thống Carter vào ngày 6), sau khi đã về thăm Ba-Lan lần đầu tiên vào tháng 6.
Thời-gian này, Liên-Xô bị khủng-hoảng nội-bộ: Thủ-Tướng Kosygin lủng-củng với Bí-Thư Thứ Nhất Brezhnev từ lâu, nay phải từ-chức vào năm 1980, Brezhnev bệnh nặng rồi chết vào năm 1982, Andropov lên thay rồi chết vào năm 1984, Chernancho lên thay rồi cũng chết vào năm 1985.
1980: Các nước thuộc Liên-Bang Xô-Viết bắt đầu tuyên-bố độc-lập. Hoa-Kỳ ngưng chở ngũ-cốc qua Liên-Xô, tẩy chay Olympic tổ-chức tại Mạc-Tư-Khoa.
1980: Lech Walesa, vốn bị sa-thải vì đòi tăng lương vào năm 1976, được công-nhân tranh-đấu đòi tái-dụng, trở lại bến tàu Gdansk và được bầu làm thủ-lãnh Công-Đoàn, từ nay mang tên “Đoàn-Kết”.
Công-đoàn tranh-đấu bất-bạo-động, ra đời trong bối-cảnh khủng-hoảng nội-bộ của các xã-hội rập khuôn Xô-Viết, đạo-đức suy-đồi, mức sống xuống dốc, chính-quyền Ba-Lan gặp phải khó-khăn kinh-tế hơn 10 năm qua. Có các giới khác kể cả sinh-viên và trí-thức cùng tham-gia.
Nhờ Đài Phát-Thanh Âu-Châu Tự-Do cổ-vũ cùng các màn lưới rỉ tai, công-đoàn dần-dà trở thành phong-trào chính-trị chống-Cộng lan khắp Ba-Lan và các nước đồng-cảnh xung quanh. Các cuộc đình-công phản-kháng gây đình-trệ cho sinh-hoạt chung, nhà cầm quyền phải nhượng-bộ, chấp-thuận quyền đình-công và lập công-đoàn riêng, từ ngày 31 tháng 8.
Walesa được Tổ-Chức Lao-Động Quốc-Tế (International Labor Organization) mời đi du-thuyết tại Ý, Nhật, Thụy-Điển, Pháp, Thụy-Sĩ…
1981: Brezhnev trở nên quá-khích (tài-liệu mới đây cho biết là y đã chủ-mưu vụ ám-sát ‘hụt’ Giáo-Hoàng John Paul II). Cộng-đảng Ba-Lan đàn-áp, giải-tán công-đoàn Đoàn-Kết và bắt Walesa vào ngày 13-12.
1982: Cộng-đồng quốc-tế phản-đối, các tu-sĩ Ky-Tô-Giáo cầu-nguyện, tổng-thống Reagan cấm vận kinh-tế Ba-Lan, và CIA chính-thức tài-trợ cho các hoạt-động bí-mật của công-đoàn Đoàn-Kết, từ nay hòa lẫn trong quần-chúng.
1983: Walesa được trao tặng giải Nobel về Hòa-Bình vào ngày 5 tháng 10 (nhưng không được phép xuất-cảnh, vợ đi lãnh thay). Tổng-Bí-Thư Đảng Gorbachev và Tổng-Thống Hoa-Kỳ Reagan gặp nhau, ký kết cải-thiện quan-hệ Đông-Tây.
1983: Giáo-Hoàng John Paul II về thăm Ba-Lan lần thứ hai, vào tháng 6.
1985: Gorbachev, Tổng-Bí-Thư Liên-Xô, chủ-trương Perestroika (cải-cách kinh-tế và xã-hội, cho phép tư-hữu và ngoại-thương) cùng với Glasnost (cởi-mở tư-duy, cho phép tự-do ngôn-luận, phóng-thích tù chính-trị và đối-lập); mưu-cầu quan-hệ và giao-thương với Tây-Phương; được Tây-Phương hoan-nghênh “Tư-Tưởng Mới”.
1985: Hung-Gia-Lợi bắt đầu phát-động phong-trào giải-thể “Minh Ước Vác Xô Vi” (WARSAW PACT= tổ-chức liên-quân Liên-Xô đặt tại Ba-Lan) và chuyển qua dân-chủ đa-đảng cùng kinh-tế thị-trường.
1986: Gorbachev gặp Tổng-Thống Hoa-Kỳ Reagan vào ngày 11 tháng 10, đàm-phán về việc giảm-thiểu vũ-khí và lực-lượng hạt nhân tại Âu-Châu (sau đó ký-kết thỏa-ước INF). Gorbachev cho tự-do thông-tin. Hằng loạt tù chính-trị Ba Lan được trả tự-do, Walesa thiết-lập cơ-cấu công-đoàn Đoàn-Kết công-khai và hợp-pháp.
1987: Gorbachev phát-động dân-chủ-hóa, cho phép bầu-cử đa-ứng-viên vào guồng máy chính-trị Xô-Viết.
1988: Gorbachev triệt-để đổi mới, rút quân Xô-Viết ra khỏi Afghanistan vào tháng 2, giảm bớt ảnh-hưởng của Đảng trong cơ-cấu Nhà-Nước từ tháng 6, thành-lập Quốc-Hội Đại-Biểu Nhân-Dân, cơ-cấu lập-pháp cho phép tu-chính Hiến-Pháp vào tháng 8; và quan-trọng hơn hết là công-bố từ-bỏ chủ-thuyết bá-chủ của Breznev, cho phép các nước trong Khối cộng-sản Đông-Âu tự-quyền quyết-định mọi việc nội-bộ của mình. Việc này dẫn đến một loạt các cuộc cách-mạng lật đổ các chế-độ cộng-sản tại Đông-Âu từ đó cho đến năm 1989. Kinh-tế Ba-Lan tồi-tệ nhất sau 8 năm liên-tiếp èo-ọp, và Liên-Xô hết muốn, và không còn sức, nâng-đỡ cho chế-độ nhà-nước bù-nhìn Ba-Lan. Cộng-sản nước này phải xin thương-thuyết với Walesa, sau nhiều đợt tranh-đấu quyết-liệt của công-đoàn.
1989: Gorbachev tổ-chức bầu-cử quốc-hội kiểu mới, cho bầu-cử tự-do và cải-tổ tại khắp các nước trong Liên-Bang, chấm dứt chủ-nghĩa công-sản, vào tháng 3 và 4.
Công-đoàn Đoàn-Kết ở Ba-Lan gặp thuận-lợi được hợp-thức-hóa và có ứng-cử-viên vào quốc-hội.
1989: Cộng-sản Hung-Gia-Lợi bị giải-thể vào ngày 23-10. Chính-phủ không cộng-sản nước này mở cửa biên-giới cho dân Đông-Đức chạy qua tị-nạn từ ngày 10 tháng 9. Bức tường Bá-Linh được khai-thông từ ngày 9 tháng 11.
1990: Quốc-Hội Đại-Biểu Nhân-Dân biểu-quyết chấm dứt vai trò lãnh-đạo chính-quyền của đảng cộng-sản vào ngày 14-3, tiếp theo Gorbachev được bầu làm Tổng-Thống Liên-Bang Nga vào ngày 15-3. Ông được tặng giải thưởng Nobel về Hòa Bình ngày 15-10. Bộ bách-khoa từ-điển New “Encyclopaedia Britannica” mệnh-danh Gorbachev là “người khởi-xướng duy-nhất và quan-trọng nhất của một loạt các biến-cố cuối năm 1989 và trong năm 1990 thay-đổi cơ-cấu chính-trị Âu-Châu đồng-thời mở đầu giai-đoạn kết-thúc của cuộc Chiến-Tranh Lạnh”.
1990: Cộng-sản Ba-Lan bị giải-thể vào ngày 25-12, và Walesa được bầu làm Tổng-Thống.
Các hoạt-động, và lời phát-biểu liên-quan, về sau, chỉ là dựa theo kết-quả mà Gorbachev của Liên-Xô nói chung, và Walesa của Ba-Lan nói riêng, đã đạt được trước rồi mà thôi.
Thanh Thanh
LÊ XUÂN NHUẬN
——-
Ba Lan: Bỏ Cộng Sản, và thành công
Tuesday, April 13, 2010
Ngô Nhân Dụng
Trong khi dân chúng Ba Lan trải qua một tuần lễ tang tóc thì chúng ta có dịp nhìn lại thành tựu của nước này trong 20 năm qua, sau khi rũ bỏ chế độ cộng sản. Ông Tổng Thống Lech Kaczinsky, ông Thống Ðốc Ngân Hàng Trung Ương Slawomir Skrzypek, mấy vị tướng lãnh và nhiều nhà lãnh đạo tử nạn trong chuyến máy bay oan nghiệt đã ra đi, nhưng họ để lại cho nước Ba Lan những di sản đáng hãnh diện.
Ba Lan hiện đang là một nền kinh tế phát triển tốt nhất ở Âu Châu; năm ngoái đã tăng trưởng 1.7% trong khi GDP trung bình của 28 quốc gia dùng đồng Euro bị giảm hơn 4%, và tất cả các nước khác đều suy thoái. Sự thành công của Ba Lan là nhờ một hệ thống ngân hàng vững chắc không bị lôi cuốn vào cơn khủng hoảng tài chánh thế giới; ngân sách quốc gia chỉ thâm thủng nhẹ trong khi giới đầu tư quốc tế sẵn sàng mang tiền đến cho chính phủ Ba Lan vay. Và điều đáng hãnh diện nhất là 20 năm sau khi tự giải thoát khỏi chế độ cộng sản, các định chế chính trị dân chủ đã bén rễ ngày càng bền chặt, sau một tai nạn thảm khốc khi nhiều nhà lãnh đạo dân sự và quân sự cùng qua đời một lúc, mà guồng máy chính trị của quốc gia tiếp tục điều hành một cách bình thường theo đúng các thủ tục dự trù trong hiến pháp.
Vị chủ tịch Hạ Viện (Sejm) đã nhận xử lý thường vụ chức quốc trưởng và tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử sớm để chọn người làm tổng thống. Phó thống đốc Ngân Hàng Trung Ương đã lên làm quyền thống đốc. Mặc dù có mấy vị tướng lãnh tử nạn nhưng quân đội đã chính thức cải chính tin sẽ có những biện pháp đặc biệt vì tình trạng khẩn cấp, hay hoãn thi hành hiến pháp lấy lý do an ninh bị đe dọa. Năm 1922, một thủ tướng Ba Lan, ông Gabriel Narutowicz cũng chết vì một tai nạn máy bay khó hiểu, sau đó quốc gia đã rơi vào hỗn loạn với các cuộc đảo chính, và đưa tới một chế độ quân phiệt.
Cái chết của gần 100 nhân vật ưu tú nước Ba Lan khiến người ta phải nhớ tới cuộc tàn sát 22,000 sĩ quan quân đội Ba Lan tự do ở Katyn vào năm 1940 do lãnh tụ Cộng Sản Stalin chủ mưu. Lực lượng sĩ quan này quy tụ những thành phần trí thức giường cột của nước Ba Lan lúc đó, với hàng chục ngàn nhà trí thức, giáo sư, luật sư, kỹ sư, bác sĩ, vân vân, đã bị động viên trước đó. Stalin đã tiêu diệt những người con ưu tú của nước Ba Lan để mở đường cho đảng Cộng Sản Ba Lan cướp chính quyền sau này và biến quốc gia thành một chư hầu của Nga. Tai nạn tuần qua cũng làm mất của Ba Lan những đứa con ưu tú nhưng đã khiến cả nước đoàn kết với nhau trong tang tóc. Nhiều người Ba Lan tỏ ý nghi ngờ tai nạn này có vẻ một âm mưu ám sát do mật vụ Nga thi hành; nhưng nói chung cả quốc gia đã cư xử một cách đứng đắn, báo chí không ai đổ tội cho chính quyền Nga.
Ðiều gì đã giúp nước Ba Lan tạo được một hình ảnh ổn định và trưởng thành đáng kính như vậy? Ðó chính là do các vận động chính trị và kinh tế của 38 triệu người dân trong 20 năm qua đã tạo nên những nền tảng vững chắc. Các định chế quốc gia đóng đúng vai trò của mình. Các nhà chính trị tôn trọng “luật chơi dân chủ” và những người dân biết bầy tỏ ý kiến qua lá phiếu tự do. Chủ trương kinh tế thị trường không còn dính đến kinh tế cộng sản cũ đã giúp dân giàu nước mạnh thật sự. Ba Lan là một tấm gương cho thấy khi người dân một nước đã quyết tâm từ bỏ chủ nghĩa cộng sản thì họ xây dựng được một quốc gia vững mạnh về kinh tế và chính trị.
Năm 1989, khi một người thuộc Công Ðoàn Ðoàn Kết đứng ra lập chính phủ đầu tiên không cộng sản vào Tháng Tám, đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức biểu tình trước tòa đại sứ Ba Lan ở Hà Nội để hô khẩu hiệu ủng hộ đảng Cộng Sản Ba Lan, chống lại vụ “cướp chính quyền” của “lực lượng thù nghịch” tay sai tư bản! Lúc đó, nhân viên tòa đại sứ đã ra yêu cầu nhóm người biểu tình giải tán, giải thích rằng việc chuyển giao quyền hành này là nguyện vọng của nhân dân Ba Lan chứ không có “thế lực thù nghịch” nào tạo ra cả. Tháng Mười Hai năm đó, Quốc Hội Ba Lan cởi trói cho nền kinh tế khỏi chế độ tập thể quốc doanh; xóa bỏ dấu tích cộng sản trong quốc hiệu, đổi tên nước thành Cộng Hòa Ba Lan. Tháng Giêng năm sau, đảng Cộng Sản Ba Lan đã tự ý giải tán, đổi tên thành một đảng Dân Chủ Xã Hội. Sau đó họ còn hóa thân vài lần nữa biến thành một Liên Minh Tả Phái (SLD). Ðảng SLD đã hai lần được các cử tri tín nhiệm đưa lên cầm quyền trong những năm 1993 và 2001, nhưng rồi lại bị người dân bỏ phiếu gạt ra khỏi chính quyền vào những năm 1997 và 2005.
Nhìn vào kết quả các cuộc bầu cử trên (hai lần nghiêng sang tả, hai lần ngả sang hữu) người ta có thể thấy các cử tri Ba Lan rất dễ thay đổi. Có người sẽ “lo lắng” là nền chính trị xứ này “không ổn định” theo lối cộng sản cũ. Nhưng trái lại, chính trị Ba Lan rất ổn định, nhờ người dân đã trưởng thành trong lối sống tự do. Chính vì người dân được tự do chọn lựa người cầm quyền, và sử dụng quyền tự do đó một cách thẳng thắn, không kiêng dè, họ thay đổi chính quyền một các dễ dàng, cho nên chính trị trở thành ổn định. Nhân dân Ba Lan có thể tự mình thí nghiệm với các chương trình trị quốc khác nhau, với các nhóm chính khách thuộc các đảng khác nhau. Năm 2005, đảng Luật Pháp và Công Lý (PiS) với chủ trương khuynh hữu và bài Nga của anh em cố Tổng Thống Kaczinsky thắng thế, vì dân chúng đã chán chính phủ cánh tả SLD tham nhũng. Nhưng hai năm sau đảng PiS lại thua trong cuộc bầu cử Quốc Hội, vì họ thất bại về kinh tế, đảng Diễn Ðàn Công Dân (PO) lên lập chính phủ mới. Nhiệm kỳ của Tổng Thống Kaxzinsky vẫn kéo dài cho hết năm nay, cho nên trong hai năm qua giữa ông tổng thống PiS và Thủ Tướng Donald Tusk thuộc đảng PO luôn luôn xung đột! Ðây lại là một tình trạng bình thường trong một chế độ dân chủ tự do, mọi người đều tôn trọng hiến pháp và luật pháp. Chính sách kinh tế cởi mở và chủ trương ngoại giao hòa hoãn với lân bang của đương kim Thủ Tướng Tusk thành công, cho nên đảng này hy vọng sẽ đưa được người lên thay thế cố Tổng Thống Kaczinsky trong cuộc bầu cử sắp tới, người đó chính là vị quốc trưởng xử lý thường vụ hiện nay.
Kinh nghiệm Ba Lan cho thấy khi người dân một quốc gia quyết tâm từ bỏ cộng sản độc tài để xây dựng dân chủ, người ta đã thành công. Chính nhờ can đảm dứt khoát bỏ chủ nghĩa cộng sản và chế độ chuyên chế do Stalin lập ra mà các lãnh tụ đảng Cộng Sản Ba Lan năm 1989 đã mở đường cho quốc gia họ bước vào một thời kỳ mới. Năm 1988 khi đảng Cộng Sản đưa kinh tế Ba Lan vào bế tắc, các công nhân Ba Lan theo Công Ðoàn Ðoàn Kết tổ chức đình công và biểu tình suốt từ Tháng Tư, đảng Cộng Sản Ba Lan đã cải tổ luật bầu cử thay vì tham quyền cố vị đến cùng. Họ tự tước bỏ độc quyền của đảng cộng sản, cho dân chúng được tự do bầu Thượng Viện và một phần ba Hạ Viện (Sejm). Chính Quốc Hội mới đó đã đưa Tướng Wojciech Jaruzelski lên làm chủ tịch nước vào Tháng Bảy năm 1989. Một tháng sau, ông đã mời một nhà báo, trong nhóm lãnh đạo Công Ðoàn Ðoàn Kết ra lập chính phủ mới. Ðến nay, ông Jaruzelski vẫn còn được nhiều người dân Ba Lan kính trọng, chứ không bị xử tử hình và bị nguyền rủa như lãnh tụ cộng sản ở Rumani.
Bên cạnh một nền chính trị tương đối ổn định, điều đáng ca ngợi ở Ba Lan là nền kinh tế sinh động. Trong lịch sử nước Ba Lan, người dân chưa bao giờ giàu như hiện nay. Sau 40 năm dưới chế độ cộng sản, kinh tế Ba Lan đã đi tới kiệt quệ, từ 20 năm qua các chính quyền đã thay đổi, thí nghiệm nhiều chính sách khác nhau nhưng đều hướng về thị trường hóa tối đa. Mặc dù có những khúc quanh, nhưng sau cùng người ta vẫn tìm ra con đường tốt nhất. Ông Bộ Trưởng Tài Chánh Jacek Rostowski cho biết trong năm 2009, lợi tức theo đầu người của người Ba Lan đã tiến nhanh vượt bực, từ tình trạng bằng một nửa (50%) tiến lên bằng 56% lợi tức bình quân của Liên Hiệp Âu Châu. Ba Lan hiện là nền kinh tế đứng hàng thứ sáu ở Âu Châu. Ðầu năm nay, trong lúc chính phủ Hy Lạp đang lo phá sản và không đi vay nợ được phải nhờ Âu Châu cứu trợ, thì chính phủ Ba Lan vì được tín nhiệm đã vay được ba tỷ Euro, hơn 4 tỷ đô la Mỹ, với lãi suất thấp.
Nhờ vay nợ dễ dàng, Ba Lan đang cải thiện hệ thống đường xa lộ và hỏa xa, thay thế những di sản hạ tầng cơ sở mục nát thời cộng sản để lại, chuẩn bị cùng Ukraine tổ chức Giải Túc Cầu Âu Châu vào năm 2012. Trong các năm qua, Ba Lan đã bước những bước dài cải tổ hệ thống hành chánh, vì các chính quyền dân chủ không sợ dân mà tin tưởng dân, kính trọng dân. Sau khi chế độ hộ khẩu được bãi bỏ, chính sách gia cư thay đổi đã giúp các công nhân di chuyển, đổi chỗ ở và nơi làm việc trong nước một cách dễ dàng hơn. Chính phủ đã giản dị hóa thủ tục, các công dân có quyền làm bản tự khai các giấy tờ của mình (oswiadczenia) thay vì phải đi xin chưởng khế (giống như công an phường) thị thực công chứng (zaswiadczenia). Nhờ lối làm việc mới đó mà đời sống kinh tế của người dân bình thường được khai thông nhanh chóng hơn. Ông Bộ Trưởng Rostowski nói, “Chúng tôi cứ giả thiết là người dân nói sự thật, cho đến khi nào có bằng chứng là họ nói dối. Trong quá khứ, chế độ cộng sản nghĩ theo lối ngược lại.”
Nếu nước Việt Nam thay đổi chế độ, từ bỏ chủ nghĩa cộng sản như dân Ba Lan đã làm, thì trong vòng mười năm đến 20 năm, chúng ta cũng sẽ tiến không kém gì nước Ba Lan. Bởi vì không có lý gì mà người dân Việt Nam lại thua kém dân Ba Lan.
Ngô Nhân Dụng
*nguồn ở đây
———-