Posted by hoangtran204 trên 14/11/2019
Posted in Lịch Sử, Tư Liệu Lịch Sử | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 31/08/2018
Posted in Nhan Vat Chinh tri, Tư Liệu Lịch Sử | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 03/04/2018
Posted in Nhan Vat Chinh tri, Tư Liệu Lịch Sử | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 18/11/2017
10.000 sĩ quan Việt Minh đã bị tố khổ và loại bỏ 1953.
Hồi ký của Hoàng Tùng : “…Ai lãnh đạo cách mạng tháng 8 thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử”!
Hoàng Tùng (1920-2010), nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng khóa V; Tổng Biên tập Báo Nhân dân.
Posted in Sách- Báo- Hồi Ký, Tư Liệu Lịch Sử | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 22/05/2017
Posted in Trại Tù, Tư Liệu Lịch Sử, Đảng CSVN | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 21/08/2015
TS Đoàn Xuân Lộc
Gửi cho BBC từ Anh quốc
19-08-2015
‘Cách mạng tháng Tám’ năm 1945 vẫn là một đề tài gây nhiều tranh luận, bàn cãi, với nhiều diện giải, nhận định hoàn toàn trái ngược nhau về nhiều khía cạnh khác nhau của sự kiện này.
Một trong những điều gây tranh cãi là bản chất và nguyên nhân dẫn đến thành công của cuộc ‘cách mạng’ đưa Việt Minh lên nắm quyền lúc đó.
Giới lãnh đạo, quan chức cũng như sử học, báo chí chính thống ở Việt Nam thường tuyên truyền rằng đó là cuộc ‘tổng khởi nghĩa giành chính quyền’ được ‘chuẩn bị công phu’, ‘diễn ra nhịp nhàng trên cả nước’ và đã ‘thành công rực rỡ’, đưa Việt Nam ‘bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội’.
Họ còn cho rằng thắng lợi của cuộc cách mạng này ‘là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy sáng tạo’ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trái lại, một luồng ý kiến khác lại khẳng định chẳng có chuyện Việt Minh, một lực lượng do ĐCS lãnh đạo, ‘cướp’ hay ‘giành chính quyền’ gì – và càng không có chuyện họ phải ‘đánh đấm’ để ‘giành chính quyền’ – vì vào thời điểm đó có một ‘khoảng trống quyền lực’ và Việt Minh đã có mặt đúng lúc để lấp chỗ trống ấy.
Vậy thực chất cuộc ‘khởi nghĩa’ hay ‘Cách mạng tháng Tám’ ấy là gì và điều gì đã khiến Việt Minh lên nắm quyền và lập nên nước ‘Việt Nam Dân chủ Cộng hòa’ lúc đó?
Khoảng trống quyền lực
Thực ra ngay sau ‘Cách mạng tháng Tám’ đã có ‘một số người’ cho rằng những người Cộng sản hay Việt Minh không phải chiến đấu gì để ‘giành chính quyền’ mà chẳng qua vì may mắn nên ‘vớ được chính quyền’. Vì vậy, vào dịp kỷ niệm một năm ‘Cách mạng tháng Tám’, trong cuốn sách cùng tên, Trường Chinh, Tổng bí thư ĐCS Đông Dương lúc đó, đã lên án những người ấy và bác bỏ nhận định đó.
Tuy vậy, dù ông Trường Chinh chính thức lên tiếng bác bỏ, dựa vào những sự kiện diễn ra vào thời điểm ấy và các nhân chứng, sử liệu xác đáng khác, học giả, đặc biệt là giới nghiên cứu nước ngoài, đều kết luận rằng những người Cộng sản có thể dễ dàng lên nắm quyền hay tiến hành thành công, nhanh gọn ‘Cách mạng tháng Tám’ là vì có một khoảng trống quyền lực vào giữa và cuối tháng Tám năm 1945.
Với việc Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 14/08, lực lượng Nhật chiếm đóng tại Việt Nam cũng như chính phủ Trần Trọng Kim được Nhật bảo hộ đã suy yếu và cũng không còn cơ sở đề tồn tại. Trong khi đó, mãi tới đầu tháng Chín, quân Đồng minh mới tới Việt Nam để giải giáp Nhật.
Như William J. Duiker ghi nhận trong Vietnam: Nation in Evolution, xuất bản năm 1983, chỉ trong vòng hai tuần – từ ngày 14/08 đến ngày 28/08, khi vua Bảo Đại thoái vị – miền Bắc và miền Trung đã gần như hoàn toàn nằm trong tay Việt Minh và chỉ ở miền Nam những người Cộng sản buộc phải chia sẻ quyền lực với những lực lượng, thành phần khác.
Theo học giả này đó là một cuộc chuyển giao quyền lực nhanh gọn, hầu như không có đổ máu gì.
Theo nhà nghiên cứu Pháp Pierre Roussett, tác giả cuốn Communisme et Nationalisme Vietnamien, xuất bản năm 1978, thực ra Việt Minh là lực lượng được mang tới quyền lực, hơn là người đã giành được quyền lực.
Stein Tonnesson, người đã có nguyên một công trình nghiên cứu về ‘Cách mạng tháng Tám’, cũng nhận định rằng Việt Minh có thể dễ dàng lên nắm quyền, không phải mất xương máu gì, vì có khoảng trống quyền lực ở Việt Nam lúc đó.
Trong cuốn The Vietnamese Revolution of 1945: Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War, xuất bản năm 1991, Stein Tonnesson cho rằng lãnh đạo ĐCS không bao giờ nghĩ nhiệm vụ của họ sẽ nhẹ nhàng, đơn giản như thế. Mọi chuyện diễn ra nhanh chóng và khác hẳn với những gì họ tính toán, chuẩn bị.
Ông nhắc lại người ta thường cho rằng ‘Cách mạng tháng Tám’ thành công là nhờ Hồ Chí Minh có một chiến lược tuyệt vời và Việt Minh đã xây dựng được một quân đội nhân dân. Nhưng thực tế, quân giải phóng và sự lãnh đạo của Việt Minh chỉ đóng một vai trò khiêm tốn trong cuộc cách mạng này.
Chẳng hạn, theo Stein Tonnesson, ông Võ Nguyên Giáp đã chuẩn bị quân đội để đánh Nhật và chắc ông cũng đã nuôi ước mơ dẫn binh lính của mình tiến về Hà Nội sau khi đã làm nên những chiến thắng lịch sử. Nhưng Hà Nội đã được lực lượng cách mạng địa phương chiếm một tuần trước khi những nhóm lính đầu tiên của ông về thành phố.
Hơn nữa, không một lãnh đạo cao cấp nào của Đảng Cộng sản có mặt khi những nhóm người trẻ tuổi cầm cờ Việt Minh giành chính quyền ở Việt Nam trong hai tuần đó.
Stein Tonnesson cũng chỉ ra rằng Việt Nam không phải là nơi duy nhất có các lãnh đạo quốc gia lên nắm quyền mà không phải đối đầu vũ lực vào thời điểm Nhật đầu hàng. Ở Indonesia, Sukano và Hatta đã tiến hành thương lượng với tư lệnh quân đội Nhật ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh. Hai nhà lãnh đạo này còn bay trở lại Jarkata trên một máy bay của Nhật và tuyên bố độc lập cho nước Cộng hòa Indonesia vào ngày 17/8 – hai ngày trước khi có cuộc nổi dậy ở Hà Nội.
Có thể để nhằm bác bỏ ý kiến cho rằng Việt Minh may ‘vớ được chính quyền’ mà không phải chiến đấu gì, như Stein Tonnesson nhắc lại, cả trong cuốn ‘Cách mạng tháng Tám’ ra mắt năm 1946 và bài ‘Cách mạng hay đảo chính’ đăng trong Cờ giải phóng ngày 12/09/1945, ông Trường Chinh đã nhấn mạnh rằng trong cuộc khởi nghĩa tháng Tám, máu đã đổ nhiều nơi.
Cũng vì nặng giáo điều, Trường Chinh lý luận một cuộc cách mạng thực sự phải có đổ máu và ông cảm thấy tiếc vì cuộc khởi nghĩa tháng Tám đã không có thêm bạo lực.
Vẫn theo Stein Tonnesson, trong một chừng mực nào đó, để bù đắp cho việc thiếu đổ máu trong cuộc nổi dậy, lực lượng cách mạng đã giết một số người ‘phản bội’ sau đó. Ông cũng nhắc đến cuốn Vietnam 1945: The Quest for Power của David Marr, được xuất bản năm 1997, trong đó ước tính rằng nhiều ngàn người được cho là ‘kẻ thù của Cách mạng’ đã bị giết hoặc chết khi bị bắt giữ vào thời điểm giữa cuối tháng Tám và tháng Chín năm 1945.
Khát vọng độc lập
Nhưng cũng có nhiều yếu tố quan trọng khác khiến cuộc khởi nghĩa hay Cách mạng tháng Tám diễn ra nhanh gọn, không đổ máu và Việt Minh có thể dễ dàng lên nắm quyền lúc đó.
Trong The Communist Road to Power in Vietnam, xuất bản năm 1981 và tái bản năm 1996, William J. Duiker nhận định rằng bất cứ cuộc cách mạng nào cũng có yếu tố thời cơ và thời cơ càng chín muồi, cách mạng càng dễ thành công nhanh gọn và Cách mạng tháng Tám không phải là ngoại lệ.
Ngoài có ‘khoảng trống quyền lực’, William J. Duiker nêu ra nhiều yếu tố, điều kiện thuận lợi khác để một cuộc khởi nghĩa hay cách mạng nổ ra ở Việt Nam lúc ấy và Việt Minh đã biết tận dụng những yếu tố, điều kiện đó.
Trong những yếu tố, điều kiện được William J. Duiker và nhiều học giả khác đưa ra có nạn đói 1944-45 ở các tỉnh Bắc Trung bộ và sự tê liệt, sụp đổ nhanh chóng của chính quyền cũ (từ trung ương đến địa phương, từ nông thôn đến thành thị).
Theo Stein Tonnesson số người chết trong nạn đói đó được Việt Minh đưa ra vào năm 1945 cũng như được tuyên truyền những năm đó là hai triệu. Nhưng ông cho rằng con số đó bị cường điệu hóa và ước tính số người thiệt mạng khoảng từ 500 ngàn đến một triệu người. Tuy vậy, ông vẫn cho rằng nạn đói là một thảm họa và nó có tác động chính trị rất lớn.
Cụ thể, nó làm người dân căm thù, tức giận (với chính sách đô hộ của Nhật hay sự bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim), cảm thấy tuyệt vọng và đòi hỏi phải có thay đổi. Chính điều này đã đặt nền móng để Cách mạng tháng Tám diễn ra và kết thúc thành công, nhanh gọn.
Những vụ tấn công, cướp các kho thóc lúc đó cũng huấn luyện người dân trong các hoạt động tập thể, giúp họ biết tự nguyện tổ chức, phối hợp với nhau trong các cuộc xuống đường biểu tình (chẳng hạn như đòi vua Bảo Đại thoái vị hay thành lập một chính phủ mới do Việt Minh lãnh đạo) lúc ấy.
Một chi tiết khác mà giới nghiên cứu đều nêu ra là trong hai tuần ấy ở Hà Nội, Huế và nhiều thành phố lớn khác ở Việt Nam đã có nhiều cuộc biểu tình quy tụ hàng chục ngàn – thậm chí hàng trăm ngàn – người đủ mọi thành phần khác nhau trong xã hội và những cuộc biểu tình này đã góp phần quan trọng trong thành công của cuộc khởi nghĩa tháng Tám.
Những cuộc tụ tập đông như vậy có thể dễ dàng diễn ra lúc đó là vì trong khoảng hơn bốn tháng nắm quyền, chính phủ Trần Trọng Kim (từ 17/04 đến 25/08) đã khuyến khích tự do ngôn luận và cổ vũ người dân tham gia vào các hoạt động chính trị. Theo Stein Tonnesson, đó là giai đoạn duy nhất trong thế kỷ 20 người dân Việt Nam gần như hoàn toàn được tự do ngôn luận.
Trong ‘The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Viet-Nam (March-August 1945’ được đăng trong tạp chí Journal of Asian Studies năm 1986, Vũ Ngự Chiêu nhận định rằng khuyến khích sự tham gia chính trị của đám đông là một trong những đóng góp, thành công đáng chú ý của chính phủ Trần Trọng Kim.
Có thể nói không chỉ trong thế kỷ 20 mà ngay cả trong những năm đầu của thế kỷ 21 này, người dân Việt Nam vẫn không được tự do ngôn luận, hội họp, tụ tập biểu tình như dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim.
Một yếu tố quan trọng khác – nếu không muốn nói là yếu tố quyết định – khiến cuộc khởi nghĩa tháng Tám bùng nổ và thành công nhanh chóng là khát vọng độc lập, dân chủ, tự do của nhân dân Việt Nam.
Tóm lại, các điều kiện để tiến hành một cuộc cách mạng ở Việt Nam lúc đó (nhằm chấm dứt sự đô hộ của đế quốc, thực dân, kết thúc sự thống trị của chế độ phong kiến và thành lập một quốc gia độc lập, một nhà nước dân chủ, cộng hòa) đã chín muồi.
Theo William J. Duiker, tại những xã hội thuộc địa khác, những người có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, phi cộng sản là lực lượng đứng lên lấp chỗ trống quyền lực cũng như tận dụng những điều kiện chín muồi khác lúc đó để nắm quyền. Nhưng ở Việt Nam, phần vì chia rẽ, phần vì thiếu một đường lối rõ ràng, các phe phái, lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc, không cộng sản lúc ấy không thể làm những điều đó.
Nhưng một yếu tố khác khiến những người Cộng sản hay Việt Minh chiếm được cảm tình, giành được sự ủng hộ của nhiều người thuộc mọi giai tầng xã hội lúc ấy là họ biết tạo một hình ảnh cởi mở, tiến bộ. Đây cũng là một trong những lý do tại sao họ, chứ không phải một lực lượng nào khác lên nắm quyền lúc ấy.
Nhiều người ủng hộ
Trong cuốn Britain in Vietnam – Prelude to Disaster, 1945-6, xuất bản 2007, Peter Neville cho rằng nhân vật trung tâm trong những biến cố tháng Tám năm 1945 là Hoàng đế Bảo Đại. Theo học giả này, việc vua Bảo Đại thoái vị đã mở đường cho một nhóm người thuộc nhiều thành phần, đảng phái, khuynh hướng khác nhau lập nên ‘Việt Nam Dân chủ, Cộng hòa’. Ông cũng cho rằng nếu vua Bảo Đại không từ ngôi, Việt Minh không thể lên nắm quyền.
Rất khó để đánh giá một nhận định như vậy. Nhưng có thể nói việc vua Bảo Đại chấp nhận thoái vị, ‘sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi cá nhân’ vì ‘sự đoàn kết’ quốc gia, dân tộc trong thời điểm lịch sử ấy, và làm Cố vấn tối cao cho chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó chứng tỏ ông cũng ủng hộ Việt Minh và chính phủ lâm thời do Việt Minh lãnh đạo.
(Theo các nhà sử học, tháng 8 1945, các cán bộ cộng sản VN mang mã tấu và súng đã bao vây din Vua Bảo Đại, sau đó đại thần Phan Kế Toại đã vào trong dinh của nhà vua, và ép Vua Bảo Đại viết thư thoái vị. Trước đó, các cán bộ cộng sản cũng dùng cách hăm dọa để ép Thủ Tướng Trần Trọng Kim phải từ chức. Trần Hoàng sẽ tìm lại bài viết trong blog có viết chi tiết này và sẽ post link).
Chuyện nhiều người thuộc các đảng phái chính trị khác – hay thậm chí có người không thuộc một đảng phái nào – tham gia chính phủ lâm thời do Việt Minh lãnh đạo lúc ấy cũng chứng tỏ các đảng phái, giới trí thức lúc ấy cũng ủng hộ Việt Minh.
Một thành viên trong chính phủ lâm thời ấy là ông Nguyễn Mạnh Hà, một người Công giáo, nắm giữ chức Bộ trưởng Kinh tế. Theo Peter Neville, Hồ Chí Minh bổ nhiệm ông vì muốn có sự ủng hộ của những người Công giáo. Ở miền Bắc lúc ấy có khoảng một triệu người Công giáo (chiếm khoảng 10% dân số lúc đó). Tác giả này cũng cho biết, trong số những người tụ tập tại Quảng trường Ba Đình để nghe ông Hồ Chí Minh đọc ‘Tuyên ngôn độc lập’ ngày 02/09/1945 cũng có rất đông người Công giáo.
Trong Hồ Chí Minh’s Independece Declaration, một chương trong cuốn Essays into Vietnamese Past, xuất bản năm 1995, David G. Marr còn cho biết ngày 02/09/1945 lại rơi vào ngày Chủ nhật và cũng là ngày Giáo hội Công giáo kính các Thánh tử đạo Việt Nam nên Nhà thờ Chính tòa cũng như nhiều nhà thờ khác ở Hà Nội chật kín người tham dự thánh lễ.
Và sau thánh lễ, để biểu hiện sự ủng hộ với chính phủ mới, các vị chủ chăn đã dẫn con chiên mình về Quảng trường Ba Đình để nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.
Việc nhân dân, đủ mọi tầng lớp, thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội lúc đó đồng loạt xuống đường làm cuộc khởi nghĩa tháng Tám, giành sự ủng hộ cho Việt Minh và chính phủ lâm thời lúc đó cũng không có gì là khó hiểu. Ý tưởng, nguyện vọng, mục đích xây dựng một nước ‘Việt Nam Dân chủ, Cộng hòa’ – trong đó mọi người ‘có quyền bình đẳng’ về quyền lợi, ‘quyền được sống’, ‘quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc’ – mà những người Cộng sản hay Việt Minh lúc đó khởi xướng, theo đuổi hoàn toàn đáp ứng được mong đợi, khát vọng của người dân.
Tuyên truyền rằng ‘Cách mạng tháng Tám’ thành công là nhờ vào việc chủ nghĩa ‘Mác-Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam’ là giả dối, nếu không muốn nói là lố bịch.
Tuyên ngôn độc lập ông Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9 không đề cập đến gì ‘Cách mạng tháng 10’ của Nga năm 1917 hay ‘chủ nghĩa ‘Mác-Lênin’. Trái lại, Bản Tuyên ngôn ấy được mở đầu bằng việc trích dẫn ‘Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ’ và ‘Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791’.
Posted in Cách Mạng Mùa Thu 1945 không hề xảy ra, Lịch Sử Việt Nam, Tư Liệu Lịch Sử | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 20/07/2013
20-7-2013
Hiệp Định Genève chia đôi đất nước được ký ngày 20-7-1954 và liền sau đó là cuộc di cư chưa từng có của gần một triệu người từ Bắc vào Nam. Tính tới tháng 7 năm nay, 58 năm trời đã trôi qua. Trẻ thơ ngày ấy nay đã thành người già. Cả dân tộc vẫn trông ngóng an bình và hạnh phúc trên nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ của chết chóc, tàn phá, chia ly. Nhân dịp này, chúng tôi xin kể hầu độc giả về Hiệp Định Genève và ký ức về cuộc hành trình tìm tự do của dân miền Bắc, trong đó có chúng tôi, để gọi là “ôn cố tri tân”.
HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20-7-1954
Cuộc chiến tranh giữa Pháp (với quân đội Quốc Gia VN tiếp tay) và Việt Minh đã bước sang năm thứ 9 vào năm 1954. Lực lượng Việt Minh càng ngày càng lớn mạnh từ khi Mao Trạch Đông chiếm trọn Hoa Lục năm 1949. Mao đã giúp Hồ Chí Minh tổ chức và trang bị các đơn vị lớn đến cấp sư đoàn và đại đoàn. Trong khi đó tướng Henri Navarre, tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp tại Đông Dương, lại phạm lỗi lầm lớn về chiến lược. Ông đưa quân đến đóng tại lòng chảo Điện Biên Phủ với ý định chặn đường quân Việt Minh tiến sang Lào và nhử quân Việt Minh đến để tiêu diệt. Navarre không ngờ Trung Cộng đã tiếp tế cho Việt Minh hàng ngàn đại bác và cao xạ phòng không, đồng thời gửi nhiều tướng lãnh của Hồng Quân sang giúp việc tham mưu và chỉ huy. Đường tiếp tế cho Điện Biên Phủ bị cắt, chỉ còn trông vào không vận, trong khi không vận bị hạn chế khả năng hoạt động vì thời tiết và hệ thống phòng không của địch. Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954 là chuyện đương nhiên phải xảy ra.
Trước áp lực quân sự của Việt Minh, Pháp muốn điều đình để tìm lối thoát. Việt Minh cũng sẵn sàng nói chuyện vì qúa mệt mỏi, bị tổn thất nặng về nhân sự và hy vọng có thể chiếm được nhiều lợi thế trên bàn điều đình. Các nước lớn cũng muốn giải quyết vấn đề Đông Dương cho xong sau khi đã dàn xếp chấm dứt chiến tranh Cao Ly. Vì thế, một hội nghị quốc tế về Đông Dương, trong đó vấn đề Việt Nam là chính, được triệu tập tại Genève, Thụy Sĩ, ngày 8-5-1954. Đồng Chủ tịch hội nghị là Anh và Liên Xô. Chu Ân Lai đại diện Trung Cộng. Phạm Văn Đồng đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam. Sau ngày 7-7-1954, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, tân Ngoại Trưởng, được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cử sang thay. Lào và Cao Miên cũng có đại diện tham dự.
Về phiá chính phủ Pháp, vài ngày sau khi hội nghị khai diễn, Thủ Tướng Laniel bị lật đổ. Tân Thủ Tướng Mendès France thuộc đảng Xã Hội lên cầm quyền. Khi nhận chức, ông hứa với dân Pháp là ông sẽ đạt giải pháp cho vấn đề VN trong 100 ngày. Nếu không, ông sẽ từ chức. Đích thân Thủ Tướng Mendès France đi phó hội vì ông kiêm luôn chức bộ trưởng ngoại giao. Điều này chứng tỏ quyết tâm tìm hòa bình của ông, nhưng cũng cho thấy thế yếu của ông khiến đối phương gia tăng đòi hỏi, gây thiệt hại cho quyền lợi của Pháp và của phe Quốc Gia VN.
Ngày 20-7-1954, Hiệp Ước Ngưng Chiến Tại Việt Nam được ký kết giữa Thiếu Tướng Delteil, đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương và Thứ Trưởng Quốc Phòng Tạ Quang Bửu, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hiệp Ước Ngưng Chiến có 47 điều với nội dung chính như sau:
– Giới tuyến quân sự được ấn định từ cửa sông Bến Hải theo lòng sông đến biên giới Lào-Việt (gần vỹ tuyến 17). Thiết lập khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên. Phiá Bắc giới tuyến do VNDCCH kiểm soát. Phiá Nam do Pháp và chính phủ Quốc Gia VN.
– Việc rút quân, chuyển quân, vật liệu và dụng cụ quân sự của hai bên phải làm xong trong thời hạn 300 ngày.
– Trong thời hạn này, dân chúng được tự do chọn và chuyển đến vùng kiểm soát của bên này hay bên kia theo ý muốn.
– Trao trả tù binh và thường nhân bị giam giữ.
– Không được đem quân đội, nhân viên quân sự, võ khí vào VN. Có thể đổi hay thay thế không qúa 50 người mỗi tháng. Không cho ngoại quốc lập căn cứ quân sự.
– Thành lập Ủy Ban Liên Hợp hai bên để thi hành Hiệp Ước và Ủy Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế gồm đại diện 3 nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan.
Kèm theo Hiệp Ước Ngưng Chiến còn có Bản Tuyên Cáo Chung Kết không có chữ ký của phái đoàn nào, nhưng được coi như tất cả các phái đoàn đều thỏa thuận, trừ hai phái đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ. Hai phái đoàn này công bố tuyên ngôn riêng.
Bản Tuyên Cáo Chung Kết có 14 điều. Quan trọng nhất là Điều 7 dự trù tổng tuyển cử tự do tại VN vào tháng 7-1956, tức 2 năm sau ngày ký Hiệp Định.
Điều 9 của Tuyên Cáo nói tới việc không chấp nhận những sự phục thù cá nhân hay đoàn thể đã tham gia tranh đấu ở bên này hay bên kia.
Hiệp Ước ấn định như thế nhưng chẳng bên nào áp dụng nghiêm chỉnh, ngoài các điều khoản liên quan tới ngưng bắn và phân vùng.
Hiệp Định Genève 1954 là kết qủa của một sự dàn xếp giữa các đại cường Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng. Mỹ giữ thái độ không chống không ủng hộ. Việt Minh và phe Quốc Gia đã ngậm đắng nuốt cay, bất lực nhìn những kẻ khác quyết định số phận của mình. Không một phe VN nào muốn đất nước bị chia đôi. Việt Minh nghĩ rằng họ đang kiểm soát được đa số lãnh thổ, trừ các thành phố lớn. Nếu có một cuộc ngưng bắn tại chỗ, họ sẽ có nhiều lợi thế. Phe Quốc Gia đề nghị quân hai bên rút về những vùng tập trung tạm thời, dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp quốc, trong khi chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử tự do. Phe Quốc Gia có lợi thế riêng trong việc đang kiểm soát những thành phố lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn, tất cả các thành phố khác ở miền Trung và miền Nam, trừ Quy Nhơn nằm trong Liên Khu 5 của Việt Minh. Ngoài ra, phe Quốc Gia cũng rất quan tâm tới sự an toàn của giáo khu Phát Diệm. Khu này được Giám Mục Lê Hữu Từ thành lập từ những năm 1946, 1947, được bảo vệ bằng một lực lượng quân sự riêng, không cho Việt Minh đến quấy phá, cũng không cộng tác với Pháp. Nhiều lãnh tụ Quốc Gia, trong đó có Ngô Đình Nhu, Lê Quang Luật… bị Việt Minh truy bức và không muốn sống trong vùng Pháp kiểm soát, đã đến nương náu tại khu tự trị Phát Diệm. Đến năm 1949, khu tự trị mới cộng tác với chính quyền Quốc Gia vừa được thành lập.
Vì vậy, việc chia đôi đất nước khiến phe VN nào cũng bị thiệt hại. Hai bên đều cố tranh đấu nhưng không thể thay đổi ý định của các đại cường. Khi biết việc chia đôi đất nước là điều không thể tránh, đại diện Việt Minh Tạ Quang Bửu đưa đề nghị lập giới tuyến ở vỹ tuyến 13 với ý định đặt Huế và Đà Nẵng vào nửa phía Bắc. Dĩ nhiên Pháp và Anh không chịu. Phạm Văn Đồng đề nghị nhích lên vỹ tuyến 16. Chu Ân Lai thỏa thuận với Mendès France và Molotov phân vùng ở vỹ tuyến 17 để khai thông hội nghị và áp lực Việt Minh phải chấp thuận. Dù phải nhận một giải pháp bất như ý, trái với tham vọng của họ, Việt Minh phải làm bộ hân hoan ca ngợi chiến thắng và hòa bình, trong khi bắt đầu sửa soạn đường lối hành động cho tương lai: chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử được dự trù 2 năm sau, và khi cần, sẽ phát động một cuộc đấu tranh võ trang mới để chiếm miền Nam.
Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước là đòi hỏi và hy vọng của phe cộng sản. Họ tính toán rằng tại miền Bắc họ có thể kiểm soát dân chúng hầu như 100%. Ở miền Nam cũng vẫn có người ủng hộ họ, chưa kể những cán bộ nằm vùng do họ gài lại sẽ thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, phá rối và cả tổ chức gian lận cục bộ trong cuộc bầu cử. Như vậy chắc chắn họ sẽ có đa số phiếu và họ sẽ thống nhất đất nước dưới sự thống trị của họ. Họ đã sốt sắng liên lạc với chính quyền miền Nam từ 1955 để hối thúc thi hành tổng tuyển cử, kêu gọi các chính phủ đã tham dự hội nghị Genève làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (danh xưng chính thức của miền Nam từ 26-10-1955) để chính phủ này phải tôn trọng hiệp định, nhất là điều khoản tổng tuyển cử. Khi VNCH quyết liệt từ chối, cộng sản mở chiến dịch trên khắp thế giới tố cáo VNCH và Mỹ vi phạm hiệp định, có tình kéo dài tình trạng chia đôi đất nước.
VNCH công bố chỉ chấp nhận tổng tuyển cử khi nào dân chúng cả hai miền có tự do như nhau, có sự thông thương và tự do bỏ phiếu không sợ một áp lực nào, dưới sự kiểm soát hữu hiệu của Liên Hiệp Quốc. Xét về thực tế, lời biện minh này có cơ sở. Nhưng cũng cần xét thêm về mặt pháp lý để xem việc từ chối tổng tuyển cử có vi phạm Hiệp Định Genève hay không.
Trước hết, Hiệp Định Ngưng Bắn chỉ do đại diện của Pháp và Việt Minh ký, đại diện chính phủ Quốc Gia VN không ký. Phe Quốc Gia chỉ bị ràng buộc về những gì liên quan tới quân sự, vì Quân Đội Quốc Gia được Quốc Trưởng Bảo Đại tạm thời cho đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương (các thỏa ước quân sự 30-12-1949 và 30-12-1950). Pháp không có quyền quyết định nhân danh Quốc Gia VN về các vấn đề có tính cách chính trị. Hành động trái nguyên tắc này phải được coi là lạm dụng lòng tin (abuse de confiance).
Thứ đến, việc tổng tuyển cử được nói trong Điều 7 của Bản Tuyên Cáo Chung Kết. Bản Tuyên Cáo này coi như được đương nhiên chấp thuận (tacitement consentie) nhưng không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào. Riêng hai phái đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ đã ra tuyên ngôn bầy tỏ sự không đồng ý. Tuyên Ngôn do Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ công bố nói rõ: “Việt Nam long trọng phản đối việc ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng Chính Phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc lập và Tự Do cho xứ sở” (1). Khi một chính phủ không ký văn kiện chung và công khai tuyên bố chống lại nội dung của văn kiện đó, tại sao lại có thể bị kết án vi phạm hiệp định, không tôn trọng cam kết?
CUỘC DI CƯ TỪ BẮC VÀO NAM
Chiếu điều 14, khoản d của Hiệp Ước Ngưng Chiến, dân chúng có quyền tự do chọn vùng sinh sống trong thời hạn 300 ngày, dân miền Bắc đã lũ lượt tìm cách vào Nam ngay sau khi Hiệp Định được ký kết. Dân các thành phố Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng may mắn nhất, vì nếu muốn đi Nam, họ có thể đi ngay từ thành phố của họ, không gặp trở ngại gì, lại có thể bán đồ đạc, xe cộ, nhà cửa trước khi đi, dĩ nhiên với giá vừa bán vừa cho. Trong khi đó dân ở các thành phố cộng sản đã tiếp thu, nhất là ở các miền quê xa xôi, việc đi Hà Nội hay Hải Phòng để từ đó vào Nam không phải là chuyện dễ dàng. Trước hết, họ phải bỏ lại tài sản, nhà cửa, ruộng vườn. Kế đó, phải thoát được những ngăn chặn trá hình hay công khai của Việt Minh. Dù vậy, khắp nơi, đặc biệt vùng đồng bằng Bắc Việt, dân chúng vẫn kéo nhau đi Nam từng đoàn từng lũ, bất kể những khó khăn và nguy hiểm.
Tôi đã được chứng kiến cảnh dân quê, đặc biệt từ Bùi Chu, Phát Diệm, Ninh Bình, lũ lượt kéo nhau đến thành phố Nam Định, trên đường đi Hà Nội để xuống Hải Phòng vào Nam. Theo Hiệp Định, Hải Phòng được chính quyền Quốc Gia và Pháp cai trị thêm 300 ngày trước khi trao lại cho Việt Minh. Mỗi ngày có hàng ngàn người đến tạm trú trong nhà chơi có mái của trường Lê Bảo Tịnh, chung quanh nhà thờ, nhà xứ và nhà người quen. Họ không tạo ra những vấn đề ăn ở, vệ sinh, trật tự. Họ ngừng ở Nam Định như chỗ nghỉ chân hoặc đợi người nhà. Mỗi đợt chỉ tạm trú một hai đêm rồi kéo nhau đi, nhường chỗ cho đợt khác. Họ tự lo việc ăn uống và dọn dẹp. Chính quyền gửi đến nhiều cán bộ nam nữ gọi là giúp dân, nhưng thật ra là để thuyết phục những người này quay về, đừng đi Nam nữa. Cán bộ tỉ tê là tại sao lại bỏ cửa bỏ nhà, bỏ mồ mả ông bà tổ tiên để đi đến nơi xa lạ, không biết tương lai sẽ ra sao. Họ còn dọa rằng chính quyền tay sai của Pháp Mỹ trong đó rất hung ác, chuyên môn hứa láo và bóc lột dân lành, rằng nay nước nhà đã độc lập rồi, chỉ hai năm nữa là tổng tuyển cử thống nhất Nam Bắc, chẳng lẽ lúc đó lại bồng bế nhau về có phải là phí phạm thời giờ, của cải và khó ăn khó nói với bà con ở lại. Nhưng những người đã quyết đi không nao núng vì những lời tuyên truyền, dụ dỗ. Có vài trường hợp dành giật, níu kéo giữa cán bộ và dân ra đi, khiến Ủy Hội Quốc Tế có văn phòng ở Nam Định phải đến can thiệp. Nói chung, những người đi sớm đều đi được vì cộng sản không dám làm mạnh lúc đó để tỏ ra tôn trọng Hiệp Định. Ngoài ra, họ cũng chưa có kế hoạch ngăn cản vì việc dân ùn ùn bỏ đi xảy ra qúa bất ngờ, ngoài sự ước tính của họ. Thời gian sau, việc ngăn cản người đi Nam được thực hiện có bài bản. Ai đi trễ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và cũng khó đi lọt.
Sau ngày việt Minh tiếp thu Hà Nội, 9-10-1954, Hải Phòng trở thành nơi duy nhất phải đến trên đường đi Nam. Vào thời gian cao điểm, tháng 4-1955, mỗi ngày Hải Phòng đón nhận khoảng 2,000 người đến từ các nơi. Trong khi đó có trên 70,000 người đang đợi các chuyến tàu và máy bay. Tàu của hải quân Pháp và Hoa Kỳ mỗi ngày chở hàng chục ngàn người vào bến Sài Gòn. Khoảng 70 phi cơ quân sự Pháp, không kể máy bay của Air Vietnam, được trưng dụng, lập cầu không vận chở dân di cư vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày 26-5-1955, tàu Gascogne của Pháp là chuyến tàu cuối cùng chở 888 người di cư tới Sài Gòn. Dân di cư từ Bắc vào Nam có 533,868 người đi đường biển, 243,657 người đi bằng máy bay. Nếu tính luôn công chức, quân nhân và gia đình, thêm những người vượt tuyến bằng phương tiện riêng, tổng số dân di cư lên tới trên 800,000 người.
Cuộc di cư 1954-1955 là cuộc bỏ phiếu bằng chân của trên 800,000 người dân miền Bắc cương quyết rời bỏ chế độ cộng sản để đi đến vùng do chính phủ Quốc Gia kiểm soát. Nếu dân được đi tự do, con số này sẽ cao hơn nhiều. Nên nhớ rằng dân số miền Bắc lúc đó, tính từ vỹ tuyến 17 trở ra, chỉ có khoảng 13 triệu người. Khi gần một triệu người bỏ đi, cộng sản VN mới thấy dân không yêu họ như họ tưởng. Miền Bắc mất đi một tiềm lực nhân sự lớn. Đa số dân có học và có khả năng cao về doanh thương và công nghệ ở các thành phố lớn đều đi vào Nam. Ngoài ra, cộng sản còn bị mất mặt về phương diện tuyên truyền. Vì thế họ phải ngụy biện rêu rao rằng đa số người di cư là giáo dân Công Giáo, bị các cha cố tuyên truyền, dụ dỗ đi Nam, số khác là những kẻ có quyền lợi gắn bó với Pháp và những kẻ phản quốc theo gót thực dân đế quốc Pháp Mỹ. Lý do tôn giáo đúng một phần nhưng vì đức tin, không phải vì dụ dỗ mê hoặc. Ngoài ra, giáo dân dù chiếm phần đông cũng không phải là tất cả. Sự thực, dân miền Bắc đã thấy tận mắt cách cai trị độc tài, tàn bạo, dối trá của Việt Minh, đã nếm mùi tiền cải cách ruộng đất qua những cuộc đấu tố, dù mới chỉ là những bước dạo đầu nhẹ nhàng nhưng đã đủ làm dân khiếp sợ. Họ đã thấy chủ nghiã cộng sản vô thần đang được từ từ áp dụng, giết dần giết mòn truyền thống văn hóa của dân tộc. Đó là lý do khiến người ta bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Bỏ hết để đi vào một miền đất chỉ hứa có tự do, không hứa thiên đàng hạ giới. Số người di cư đã vượt qúa mọi dự đoán. Người Pháp dự trù có 60,000 người. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chỉ hy vọng 100,000. Thực tế đã có 860,000 người chạy cộng sản vào Nam (2).
Ngày 11-5-1955, Việt Minh tiếp thu thành phố Hải Phòng. Luật Sư Lê Quang Luật, Đại Biểu Chính Phủ Quốc Gia tại Bắc Việt, rước một hộp đất miền Bắc vào trong Nam, chấm dứt sự hiện diện của chính quyền Quốc Gia Việt Nam tại miền Bắc.
Cuộc di cư 1954-1955 của gần một triệu người từ Bắc vào Nam vừa là một gánh nặng vừa là một chiến thắng đầu tiên cho miền Nam. Số người đông đảo này, tuy mới chỉ là một tảng băng nổi, đã chứng tỏ sự oán ghét của nhân dân đối với chế độ cộng sản. Nó cung cấp nhiều bộ óc, nhiều bàn tay để cùng đồng bào miền Nam xây dựng một xã hội tiến bộ vượt xa xã hội miền Bắc. Nó đóng góp xương máu để bảo vệ miền Nam. Nó tạo sự thông cảm, hòa đồng Bắc Nam qua tiếng nói, tập tục, hôn nhân, thức ăn thức uống. Nói tóm lại, con người và văn hóa đồng bằng sông Hồng đã được đem vào đồng bằng Cửu Long để hòa hợp thành một văn hóa mới: văn hóa Việt Nam thống nhất. Không cần sự áp đặt bằng súng đạn như năm 1975.
CUỘC TRỐN CHẠY CỦA GIA ĐÌNH TÔI
Là dân thành phố ở lại sau khi Việt Minh đã tiếp quản Nam Định từ tháng 6-1954, gia đình tôi chưa có quyết định dứt khoát đi hay ở. Chúng tôi nhiều lần sững sờ vì những vụ ra đi bất ngờ của những người thân quen. Việc đi Nam được giữ bí mật, không ai nói với ai, đôi khi được giữ kín với cả anh chị em ruột. Buổi sáng khi thức dậy, nếu thấy nhà hàng xóm đóng kín cửa, không một tiếng động, không một bóng người, là biết nhà đó đã đi rồi, đi rất sớm, bằng xe hàng hay bằng phương tiện nào khác lúc trời chưa sáng hẳn. Lúc đó người ở lại vừa buồn vừa phân vân. Đi hay ở? Đi thì phải bỏ lại hết và làm cách nào để có thể sống nơi xa lạ? Lịch sử tái diễn với những cuộc vượt biên 20 năm sau.
Đến tháng 11-1954, bố mẹ tôi mới mới sửa soạn đưa gia đình di cư vào Nam. Yếu tố quyết định là việc cán bộ kinh tế đòi xát nhâp xưởng tiểu công nghệ của bố mẹ tôi vào công ty hợp doanh với nhà nước. Bố tôi biết đây là thủ đoạn nhà nước kiểm soát trước rồi chiếm hữu sau. Sưu cao thuế nặng đã bắt đầu đè trên tư nhân. Tôi có chiếc xe đạp “demi course” rất nhẹ bằng duras do Đức sản xuất, chiếc xe tôi dùng đi học và đã đạp tới tận Thái Bình để thu tiền hàng. Khi sửa soạn di cư, tôi đem chiếc xe thân yêu ra bán ở chợ trời. Khi vừa ngã giá 800,000 tiền cụ Hồ với người mua thì một cán bộ mặc sơ-mi nâu, đeo sắc cốt, xuất hiện ngay sau lưng và đòi tôi đóng thuế 400,000. Tôi không bán nữa, đưa xe về để lại cho một người bà con với giá thấp hơn, nhưng không bị mất tiền thuế cao đến vô lý như vậy. Ngay lúc đó, tuy mới chỉ là một đứa con nít 14 tuổi, tôi đã nhận ra thật khó sống với mấy ông Việt Minh này.
Gia đình tôi phải đi Hải Phòng làm hai đợt. Đợt đầu bố tôi dẫn tôi và hai em trai đi theo. Mẹ tôi, chị họ tôi và hai em nhỏ phải đợi đi đợt sau. Chúng tôi đi xe hàng lên Hà Nội rồi từ đó đi xe hỏa xuống Hải Phòng. Hà Nội đã được Việt Minh tiếp thu từ tháng 10. Muốn đi Hải Phòng phải có giấy phép vì là đi vào vùng địch còn kiểm soát. Rất may bố tôi đã dự liệu và có giấy phép đi mua hàng. Địa điểm ranh giới giữa hai vùng kiểm soát là ga Đỗ Xá thuộc tỉnh Hải Dương trên quốc lộ số 5. Tại ga này, trước khi sang vùng địch kiểm soát, mọi hành khách đều bị lục xét tỉ mỉ. Nhiều phụ nữ và trẻ em bị lột quần áo để khám xem có dấu vàng và tiền Đông Dương Ngân Hàng trong người hay không. Vàng và tiền Đông Dương bị tịch thu hết. Nhiều người khi bị lột hết vàng và tiền đã khóc lóc quay về, không dám đi Nam khi chỉ có hai bàn tay trắng.
Bố tôi biết trước chuyện này nên đã nghĩ ra cách dấu vàng rất hiệu qủa. Ông cho ba anh em chúng tôi đi guốc mộc. Mỗi chiếc guốc được dùi hai lỗ xuyên chỗ đóng quai. Mỗi lỗ có một lượng vàng lá Kim Thành được cuộn lại và luồn vào. Sau đó quai guốc được đóng lại bằng đinh và che lỗ. Bố tôi còn lấy nước muối xoa trên đinh để làm cho đinh dỉ xét trông như đinh cũ. Thế là ba anh em tôi với ba đôi guốc có thể mang theo 12 lượng vàng. Chỉ khổ cho tôi phải canh chừng các em, một đứa 10 tuổi, một đứ 7 tuổi, để chúng đừng tiết lộ bí mật và đừng đánh rơi guốc từ trên xe lửa. Riêng bố tôi, ông còn đánh lừa cán bộ bằng một mánh khác. Ông cuốn giấy bạc 100 đồng Đông Dương trong những điếu thuốc lá được rút ruột, rồi ấn lại chút thuốc ở hai đầu. Ông bỏ 15 điếu thuốc có tiền vào vào phiá trong bao thuốc thơm Du Kích hay Điện Biên, 5 điếu phiá ngoài là thuốc thật. Ông tỉnh bơ rút thuốc hút trước mặt cán bộ, đôi khi còn mời cán bộ hút một điếu cho vui. Nhờ có chút vốn liếng nhỏ mang theo, gia đình tôi mới dễ xoay sở trong những ngày đầu đặt chân đế Sài Gòn.
Đến Hải Phòng, bố tôi giao chúng tôi cho một người anh họ của ông đang ở trại tạm trú để nhờ bác trông coi chúng tôi trong khi bố tôi trở lại Nam Định đón mẹ, chị và hai em tôi. Chúng tôi ở với bác và anh Thanh con bác tại căng (camp) Hạ Lý nằm giáp ranh thành phố Hải Phòng. Đây là một khu trại được dựng với hàng trăm lều vải lớn của quân đội, có thể cung cấp nơi tạm trú cho hàng ngàn dân di cư trong thời gian làm giấy tờ và chờ tàu hay máy bay chở vào Nam. Trong thời gian ở trại, chúng tôi được phát gạo nhưng phải tự túc mua thức ăn. Bên cạnh trại, mỗi buổi sáng có những người buôn thúng bán bưng đến bán rau, thịt cá và gia vị. Việc ăn ở kể như tạm ổn. Đối với tôi chỉ có hai nỗi khổ. Một là lều vải nhà binh tỏa hơi nóng, mùi vải bố rất ngột ngạt khi trời nắng và nền đất lầy lội sũng nước khi trời mưa. Hai là sự mong ngóng từng giờ từng phút bố mẹ tôi từ Nam Định đến đoàn tụ với chúng tôi. Tôi đã nghĩ nếu có chuyện gì xảy ra khiến bố mẹ tôi không đi được, tôi sẽ dẫn các em trở về, không thể đi Nam khi không có bố mẹ.
May mắn thay, chỉ một tuần sau, bố mẹ, chị và các em tôi đã đi lọt và có mặt ở Hải Phòng. Bố tôi hú hồn vì thoát được bàn tay công an. Tối hôm trước ngày bố tôi về lại Nam Định để đưa nốt gia đình đi đợt hai, loa phát thanh của khu phố đã gọi rõ tên bố tôi và tố cáo bố tôi đi vào vùng địch để nhận công tác gián điệp cho địch. Nghe tin này, bố tôi cùng gia đình rời khỏi nhà ngay trong đêm. Sáng sớm hôm sau lấy xe đi Hà Nội ngay. Công an không trở tay kịp nên bố tôi đã thoát và gia đình tôi mới được đoàn tụ.
Ở Hải Phòng, bố tôi đưa mẹ con tôi đến ở nhờ nhà một người quen tại phố Dinh. Trong thời gian lo giấy tờ và chờ đi Sài Gòn, chúng tôi có dịp thăm viếng Hải Phòng, thành phố lớn thứ nhì của miền Bắc. Chúng tôi đi thăm chợ Sắt, phố Khách, nhà hát lớn, đi lễ nhà thờ phố Dinh…, nhìn cảnh thành phố đìu hiu chờ ngày đổi chủ.
Ngày 8-12-1954, chúng tôi được xe nhà binh chở từ điểm hẹn tại nhà hát lớn Hải Phòng tới phi trường Cát Bi. Từ đó chúng tôi được máy bay cánh quạt của Air Vietnam chở vào Sài Gòn. Lần đầu tiên tôi được đi máy bay, được một cô chiêu đãi viên mời nước ngọt miễn phí. Nhưng vì ly nước có “gaz”, tôi đã ói ra mật xanh mật vàng, quên cả nhìn xuống quê hương miền Bắc để nói lời giã biệt.
59 năm đã trôi qua. Tôi vẫn chưa về thăm lại quê hương miền Bắc. Nếu Trời cho có ngày tôi về được, thì chắc cây đa bến cũ con đò đã khác xưa! Và người cũ sẽ còn lại ai?
Mặc Giao
———————————————————
Ghi chú:
(1) Tài liệu trích từ “Hiệp Định Genève 1954” của Nguyễn Anh Tuấn. Loại sách Tìm Hiểu Chính Trị. Sài Gòn 1964.
(2) Những con số ghi theo Huỳnh Văn Lang trong bài nói chuyện tại Westminster, Hoa Kỳ, 8/11/2008
—
Posted in Lịch Sử Việt Nam, Tư Liệu Lịch Sử | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 20/07/2013
Trần Hoàng
20-7-2013
Nước Việt Nam đã không may vì thua cộng sản hai lần qua việc ký 2 hiệp định, Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp Định Paris 1973. ►Hội Nghị Paris 1968-1973
Hiệp Định Geneve 20-7-1954 đã chia Việt Nam ra làm 2 nước. Miền Bắc theo chế độ cộng sản, và Miền Nam theo chế độ dân tự do dân chủ.
TT Ngô Đình Diệm đã từ chối không ký Hiệp định Geneve 1954. Trung Quốc đã dùng áp lực quân sự và ngoại giao giúp đảng CSVN chiếm được Miền Bắc bằng Hiệp Định Geneve 1954.
Sự giúp đỡ của TQ dành cho ông HCM và Đảng LĐVN là kết quả của cuộc đi cầu viện của ông Hồ Chí Minh vào đầu năm 1950. Ông HCM qua Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông và sau đó qua Liên Xô gặp Stalin vào mùa xuân 1950 để xin quân đội Trung Quốc qua VN giúp đánh Pháp, và xin vũ khí, quân trang quân dụng và lương thực.
HCM còn viết thư cầu cứu Stalin xin vũ khí và xin làm theo lời chỉ bảo của Stalin để giết nông dân VN trong vụ cải cách ruộng đất (nguồn trong phần ý kiến phản hồi -comment)
Tình báo của Đài Loan và Pháp cho biết, vào năm 1950, Mao đã hứa giúp ông HCM sau khi cả hai đã ký một hiệp định bí mật.
Những biểu hiện của đảng CSVN trong suốt thời gian từ 1956-2012 cho thấy hiệp định bí mật ấy là có thật. Theo đó, ông HCM và đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng csvn) đã hứa đền ơn cho Trung Quốc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, và núi Lão Qua…nếu như Trung Quốc giúp ông HCM đánh Pháp, và lấy Miền Bắc 1954 và Miền Nam 1975.
Sau khi giúp ông HCM và đảng LĐVN (tức đảng CSVN) chiếm được Miền Bắc bằng thủ đoạn chính trị rất cáo già qua Hiệp Định Geneve 20-7-1954, Trung Quốc lấy công lần thứ nhất bằng cách chiếm một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Để hợp pháp hóa quần đảo Hoàng Sa về tay Trung Cộng, ngày 4-9-1958 Trung Quốc ra công bố về chủ quyền biển đảo, và buộc Miền Bắc phải ký xác nhận. Ông HCM đã sai TT Phạm Văn Đồng ký Công Hàm 14-9-1958, nội dung là đồng ý chủ quyền vùng biển đảo, và lãnh hải của Trung Quốc.
http://www.youtube.com/watch?v=JtyVPmQl_zM
Sau khi bắt tay với Mỹ năm 1972, TQ đã dò hỏi và biết được cuộc chiến VN sẽ kết thúc năm 1973. Trung Quốc đã lấy công lần thứ 2 bằng cách chiếm một số đảo khác trong quần đảo Hoàng Sa. Khi ấy, Hải Quân VNCH đã tấn công các chiến hạm của Trung Quốc và0 ngày 19-1-1974 để bảo vệ chủ quyền các hòn đảo này. (Mời các bạn đọc Tư Liệu Lịch Sử, để thấy lập trường của đảng CSVN qua phát biểu của Lê Đức Thọ với tướng Lê Quang Hòa vào 1973.).
Có thể nói, Hiệp định Geneve 20-7-1954 là thành công bước đầu và quan trọng nhất trong lịch sử của đảng CSVN. Trước đó, từ ngày thành lập đảng từ 1930 cho đến 1954, đảng CSVN phải trốn chui, trốn nhủi, và phải đổi tên rất nhiều lần, thậm chí đảng còn phải giải tán và đi vào hoạt động bí mật như sau khi “cướp chính quyền 1945”. Đảng CSVN hoàn toàn không có văn phòng đại diện, không có cơ sở chính danh ở bất cứ thành phố nào ở Việt Nam hay bất cứ nơi đâu từ 1930 cho mãi đến năm 1954. Nhưng sau hiệp định Geneve 1954, ông HCM và đảng nghiễm nhiên trở thành ông chủ của một nửa nước Việt Nam. Đó là một ‘thắng lợi’ lớn nhất, quan trọng nhất kể từ ngày thành lập đảng CS Đông Dương vào năm 1930. Và, đó cũng là vận xui của nước VN và cả dân tộc VN bắt đầu. Vì các con quỷ đỏ đã cõng rắn vào nhà, để rồi con rắn độc Trung Cộng tiếp tục chiếm dần biển đảo và biên giới của VN trong giai đoạn từ 1956-2000. Và cuộc chiến tranh kéo dài 21 năm, 1954-1975 mà Lê Duẫn gọi là “Ta đánh Miền Nam là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc”
[Đảng CSVN và Nhà nước thường hay chửi rủa chế độ phong kiến, điển hình là chửi rủa các vị vua nhà Nguyễn là nhu nhược, tay sai, bán nước… Nhưng diện tích của nước VN dưới triều đại phong kiến, vua nhà Nguyễn và thời Pháp đô hộ vẫn rộng lớn hơn rất nhiều so với hiện nay do đảng CSVN và nhà nước cai trị.
Cụ thể, dưới thời vua nhà Nguyễn, từ 1802 cho đến khi chính phủ đầu tiên của một nước VN độc lập và thống nhất của Thủ tướng Trần Trọng Kim tuyên bố độc lập vào ngày 17-4-1945, lãnh thổ và lãnh hải của VN bao gồm các Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Móng Cái, Núi Lão Sơn… rộng lớn hơn rất nhiều so với thời đảng CSVN chiếm quyền 59 năm qua. Sau khi bắt tay làm “đồng chí anh em” với Trung Cộng 1950.
Hiệp định Ba Lê 27-1-1973 là chiến thắng của cộng sản lần thứ 2, đẩy cả nước VN dưới ách độc tài và cai trị của đảng CSVN. Hoàng Sa, Trường Sa, Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, Núi Lão Sơn, nhiều vùng ở tỉnh Móng Cái…nay nằm trong tay của Trung Quốc cũng vì đảng CSVN và ông HCM đã cầu viện Trung Quốc năm 1950.
Sau khi Trung Cộng chiếm Hoàng Sa 1974, và chiếm Trường Sa 1988, lẻ ra các đảng viên của đảng CSVN phải biết đó là nổi nhục mất đất đai biển đảo phải la lớn cho cả thế giới biết Trung Cộng chiếm biển đảo của ta, và cố tìm cách đòi lại. Nhưng không, đảng CSVN nhào qua thần phục Trung Cộng qua cuộc họp bí mật ở Thành Đô, ngày 3 và 4 tháng 9, 1990. Đồng bào VN không một ai được biết tới cuộc họp này, mà chính là Trung Cộng tung ảnh lên các trang mạng xã hội, để làm bằng cớ buộc đảng CSVN và nhà nước phải ký Hiệp Ước Biên Giới 31-12-1999. Trong các hình ảnh Trung Cộng tung lên mạng, mọi người có thể nhìn thấy Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Di Niên, Lê Khả Phiêu…đang rất hí hửng khi nói chuyện với chủ tịch TQ Giang Trạch Dân.
Các hình ảnh ấy cho thấy: Đó là một lũ bán nước cầu vinh. Để cho kẻ thù chiếm lấy đất đai biển đảo do tổ tiên để lại mà không cảm thấy nhục nhã, không biết lập ngày đêm bàn mưu tính kế, luyện tập quân đội và làm cho quốc gia phú cường dân giàu nước mạnh để chờ thời cơ đánh cho kẻ thù 1 trận, đòi lại đất đai biển đảo đã mất…Trái lại, suốt mấy chục năm qua, các đảng viên cao cấp của đảng CSVN còn xum xoe đi theo nịnh hót kẻ thù, và còn khoe khoang: TQ là “anh em 4 tốt, 16 chữ vàng”…
Các bạn thử đọc bài dưới đây thì sẽ thấy rõ tính nhất quán thần phục của đảng CSVN và nhà nước đối với Trung Cộng không phải chỉ mới hôm nay, mà là 40 năm về trước.
—
Ôn lại lịch sử
Đảng CSVN và Nhà Nước luôn tìm cách viết lại lịch sử bằng cách nhấn mạnh đến các hoạt động của họ vào năm 1945. Nhưng nếu ta bình tỉnh đặt câu hỏi: tại sao cuốn phim nói về ngày độc lập 2-9-1945 chỉ kéo dài có 20 giây? Ai mời Pháp trở lại Việt Nam qua Hiệp định 6-3-1946? Chính là ông HCM.
Sau đó, ông và đảng CS của ông kêu gọi sự hợp tác với các đảng phái quốc gia để chống Pháp (1946-1954). Khi các đảng phái quốc gia (vì cũng muốn nước nhà độc lập) hợp tác với đảng CSĐD, thì đảng CS do ông HCM lãnh đạo đã sai người ban đêm đi ám sát giết chết các nhà lãnh đạo của các đảng phái quốc gia, mặt khác đảng viên cộng sản bí mật báo cho quân Pháp đến chặn bắt các nhân vật trong các đảng phái quốc gia, và mặt khác tiêu diệt các trí thức nhân sĩ như Phạm Quỳnh, Dương Bá Trạc, Huỳnh Thúc Kháng (rồi đổ tội cho Pháp)… và giết các nhà lãnh đạo tôn giáo như giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (1947), Lý Đông A ( 1947 ), giám mục Ngô Đình Khả…hàng ngàn người yêu nước không theo cộng sản và đảng viên của các đảng phái quốc gia đã bị cộng sản ám sát, giết hại, chặt chân, bỏ vào bao bố thả trôi sông…
Khi nhắc lại giai đoạn lịch sử 1945, ông bà cha mẹ ta thường nói “…Việt Minh CƯỚP chính quyền vào tháng 8, năm 1945…”, họ dùng chữ CƯỚP là rất đúng, mà chính đảng và nha nước cũng dùng chữ cướp chính quyền. Thật ra, trước đó khi Pháp đầu hàng Nhật vào tháng 3/1945, nước Việt Nam, Lào, Kampuchea đã được Nhật khuyến khích: hãy tuyên bố độc lập khỏi tay nước Pháp.
Vua Bảo Đại đã tuyên bố nước Việt Nam độc lập từ ngày 16-3-1945, và chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập do Thủ tướng Trần Trọng Kim thành lập, và ra mắt 10 bộ trưởng vào ngày 17-4-1945, tấm hình ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày 17-4-1945 vẫn trong sách sử. (Vì ghen tức về chuyện này, đảng và nhà nước giấu bén chuyện hội đồng chính phủ do Thủ Tướng Trần Trọng Kim đứng đầu nội các, thậm chí trong sách lịch sử dạy cho học sinh, đảng CSVN cũng không viết về tên các nhân vật và các biến cố ấy. Thay vào đó, đảng cứ tuyên truyền với dân là: nước VNDCCH do HCM thành lập, và tuyên bố độc lập vào ngày 2-9-1945.
*Mời các bạn đọc thêm bài này
Tại sao chiến tranh Việt Nam kết thúc?
_Chiến lược đóng quân của Mỹ ở Việt Nam đã thay đổi khi TT Nixon bắt tay với Trung Quốc năm 1972. Lúc ấy, Mỹ muốn dùng Trung Quốc gây hấn thêm nữa với Liên Xô để buộc quân đội Liên Xô phải đóng 1 triệu quân dọc theo biên giới Liên Xô- Trung Quốc; việc này ắt sẽ làm cho sức mạnh của Liên Xô bị chia đôi và yếu hẳn đi bên phía Âu Châu, và cùng lúc đẩy Liên Xô ở vào thế nằm giữa hai gọng kềm (giữa TQ và các nước thuộc khối NATO (16 nước Tây âu và Mỹ).
Chiến lược của Mỹ từ 1963-1972 là đem quân Mỹ vào miền Nam, và dùng miền Nam Việt Nam như một tiền đồn chống cộng. Họ cho rằng nếu mất Miền Nam, thì các nước khác như Thái Lan, Mã Lai, Indonesia… sẽ rơi vào tay cộng sản (đây gọi là học thuyết Domino).
Nhưng sự tham dự của quân đội Mỹ ở Việt Nam kéo dài từ 1965-1972 mà cuộc chiến gần như không có dấu hiệu kết thúc bằng biện pháp quân sự, đồng thời sự thiệt mạng và bị thương của lính Mỹ được báo chí Mỹ thống kê và đếm hàng tuần đã làm cho dân chúng Mỹ buồn bả và mất tinh thần. Và khi ra tranh cử TT năm 1968, TT Nixon đã hứa nếu đắc cử, ông sẽ rút quân đội Mỹ về nước trước khi nhiệm kỳ của ông kết thúc vào 20-1-1973…
Bước ngoặc đã đến với TT Nixon khi ông và bộ tham mưu nhận ra Trung Quốc đang ve vãn muốn đi đêm với Mỹ (kinh tế của Trung Quốc bế tắc, cả nước rơi vào nạn đói kéo dài, Mao muốn tìm lối thoát, nên đứng ra làm trung gian, giúp Mỹ đàm phán với miền Bắc VN, và lợi dụng cơ hội tiếp xúc ấy để bí mật bàn bạc với Mỹ về các vấn đề khó khăn của họ…các kế hoạch kinh tế 5 năm của TQ thất bại từ 1959-1972 ); kinh tế , tài chánh, công nghiệp và nông nghiệp của TQ sụp đổ từ 1966, đặc biệt nạn đói ở TQ lúc ấy đang tràn lan khắp nước, dân chúng chết hàng 20 triệu người…mọi người đều phải ăn cháo…An ninh lương thực bị đe dọa, và TQ cũng muốn kết thân với Mỹ để rảnh tay khỏi phải viện trợ 2 tỷ đô la hàng năm cho miền Bắc Việt Nam, và dùng Mỹ như một đồng minh để thoát khỏi sự đe dọa của Liên Xô (cả hai nước cộng sản LX và TQ đã dàn quân đánh nhau chí chết ở biên giới vào năm 1969).
Tóm lại, khi Mỹ bắt tay được với Trung Quốc 1972, Mỹ được lợi, Trung Quốc được lợi, và chiến tranh Việt Nam đã phải kết thúc. Nhưng, cái giá mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra chiến tranh và chiếm cho bằng được Miền Nam là quá lớn. Hơn 1 triệu 300 ngàn bộ đội đã chết, 2 triệu thường dân đã hy sinh, 326 ngàn sĩ quan và binh sĩ của VNCH đã chết, 58 ngàn binh sĩ Mỹ đã tử thương. Tỉ lệ chết giữa Mỹ, VNCH, và bộ đội như sau. Cứ 1 lính Mỹ chết, thì có 5 lính VNCH hy sinh, và 20 bộ đội miền Bắc tử thương. Và cố Tổng thống Ronald Reagan đã nói thêm: “Chấm dứt chiến tranh Việt Nam không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong, vì lẽ cái giá phải trả cho loại hoà bình đó là ngàn năm tăm tối cho những thế hệ sinh ra tại Việt Nam về sau.
———
*(Mỹ cắt quân viện cho miền Nam từ 1,5 tỷ đô la năm 1972, xuống còn 700 triệu đô la năm 1973, và rồi chỉ còn 300 triệu đô la năm 1975 trong bối cảnh giá xăng dầu năm 1973 gia tăng và kinh tế Mỹ (theo đúng chu kỳ) mỗi 7-10 năm đang rơi vào khủng hoảng).
***
*Nhân đây, phải nhắc đến tài nhìn xa trông rộng của ông Ngô Đình Nhu. vào tháng 9- 1963, ông Nhu nói: nếu TT Ngô Đình Diệm không còn làm TT nữa, thì Miền Nam VN chỉ đứng vững được 10 năm. Quá chính xác. Mỹ rất ghét ông Ngô Đình Nhu, vì ông Nhu quá tài giỏi. (Mỹ luôn luôn tìm cách ép TT Diệm đẩy ông Nhu ra nước ngoài). Ông Nhu dùng Ấp Chiến Lược triệt hạ được 98% cộng sản ở miền Nam,
Đồng chí Stalin thân mến:
Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San.Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.
Gửi lời chào cộng sản.Hồ Chí Minh, 31/10/1952
Nguồn tài liệu: Cục lưu trữ quốc gia Nga:
http://www.rusarchives.ru/evants/exh…tnam1/22.shtml
–———-
Thư thứ hai:
Đồng chí Stalin kính mến
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
– Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng có ngừơi chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc kí ninh ( thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn trong nửa năm
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.(b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu(c) 200 khẩu súng phòng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất .
Hồ Chí Minh
30-10-1952 đã ký
http://vietvungvinh.com (link của bài viết này đã bị hỏng)
———-
vybui says:
Thưa độc giả Trần Kha,
Khi tôi bỏ công viết những dòng này thì tôi tin là ông không biết nhiều lắm về chế độ CS tại VN, hay có biết cũng chỉ là biết những gì họ cho ông biết. Nếu có hơn thì cũng do sách vở, báo chí cả trong lẫn ngoài nước đề cập đến, chẳng hạn về cuộc Cải Cách Ruộng Đất mà ông và vài vị độc giả đang thảo luận.
Ông nói không sai, CCRĐ CHÍNH THỨC bắt đẩu vào ngày 19/12/1953 khi luật CCRĐ được ban hành. Nhưng trước đó, vào những năm 1951 ở Khu Tư( Thanh-Nghê-Tĩnh) thì nó đã được bắt đầu. Trước đó nữa vào năm 1949 qua một Thông Tư Liên Bộ, nó đã được đề cập đến. Nhưng thực ra, ngay từ khi Cách Mạng Tháng Tám thành công, những vùng do Việt Minh kiểm soát đã hình thành cuộc cải cách ruộng đất dù mới có tính cách sơ bộ do những nguyên nhân sau:
– Tình hình an ninh tại một số vùng làm cho người Pháp, Việt thân Pháp bỏ đi, ruộng đất của họ được phân phối cho nông dân để lôi kéo từng lớp chiếm đại đa số ở nông thôn Miền Bắc đi theo VM.
– Một số đia chủ vì sợ và có it nhiều hiểu biết về VM cũng bỏ đi và để lại ruộng đất.
-Dùng bạo lực quy kết những điền chủ là thông đồng với Pháp để cướp đoạt tài sản, ruộng đất cuả họ…
VM ngay từ những năm 1946, không những lấy đất của những thành phần trên, mà đối với những người có nhiều ruộng đang cho thuê, VM cũng đã cắt giảm điạ tô, bãi bỏ mọi khoản tiền(luá) thuê ruộng (của điền chủ). Theo tài liệu chính thức của Đảng CSVN( Đại Cương Lịch Sử VN, do Lê Mậu Hãn chủ biên, nhà xuất bản Giáo Dục, tháng 3, 2007) thì công cuộc CCRĐ đã được Đảng và CP TIẾP TỤC TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP( từ 1946), nhưng chỉ đến 1953 mới ban hành luật và phát động quy mô trên cả nước (VNDCCH).
Đây là lời phát biểu cuả HCM tại phiên họp thứ 3 Quốc Hội (khoá I) :
“….Luật CCRĐ cuả ta chí nhân, chí nghĩa, hợp tình, hợp lý. Chẳng những là cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng để cày, mà đồng thời CHIẾU CỐ “đồng bào” Phú Nông, “đồng bào” Địa Chủ…”
Chiếu cố như thế nào chắc mọi người đã rõ. Ai là ‘đồng bào’ cuả tên CS HCM/ Hồ Tập Chương thì miễn bàn.
Bao nhiêu “đồng bào” cuả CS đã hiến tiền bạc, tài sản, ngay cả sinh mạng cho chúng như mẹ con bà Cát Hanh Long, cha con ông Đặng Văn Hướng, Đặng Văn Việt Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 174 khét tiếng và hàng chục, hàng trăm ngàn những người yêu nước bị giết vì thuộc thành phần trí thức thành thị, phú nông, trung nông, điền chủ ở thôn quê.
Một trường hợp khốn nạn là cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, từng là Tổng Đốc Thanh Hoá, một nhà nho trong sạch, yêu nước, dù bỏ quan về làm dân, CS cũng không tha. Năm 1954, cụ bị đấu tố, bị kết án 20 năm tù bị đưa đi “cải tạo”. Cụ đã nhịn đói cho đến chết khi bọn CS nhốt cụ vào cũi, tới bữa ăn, chúng đem cho it cơm để trong lá chuối đặt dưới đất và bắt cụ sủa gâu gâu như chó rồi mới được ăn. Dù cha CHẾT THẢM, CHẾT NHỤC như vậy, tên khốn nạn NGUYỄN KHẮC VIỆN (Bác Si) và bày em nó như NGUYỄN KHẮC PHÊ, NGUYỄN KHẮC PHI … vẫn một lòng đi theo CS và suốt đời phục vụ đắc lực cho Hồ và bè lũ. Cũng may trong số con cụ Nguyễn Khắc Niêm còn GS Nguyễn Khắc Dương, ( ĐH Đà Lạt) là đi theo đường khác, phục vụ Quốc Gia Dân Tộc, và bị đối xử vô cùng khắc nghiệt khi CS chiếm được Miền Nam.
http://www.danchimviet.info/archives/80869/afp-mot-nguoi-duc-kien-nha-cam-quyen-ha-noi/2013/10
Posted in Lịch Sử Việt Nam, Tư Liệu Lịch Sử | 8 Comments »
Posted by hoangtran204 trên 10/09/2012
Những nhân chứng lịch sử chẳng may “bị” sống dai như mình không biết có ai còn trí nhớ để… nổi giận 5 phút khi bị các nhà “độc quyền nói”, “độc quyền viết”, ”độc quyền kết luận” đưa ra những dữ kiện lịch sử “lếu láo”, ”lấp liếm”, “lươn lẹo”, “lừa lọc”, ”lố lăng”, ”lật lọng”, “lấp lửng”…, về những gì đã xảy ra ở cái thời mà có khi chính ông cha họ cũng đang còn mặc quần thủng đít!
Tớ đã hơn một lần phải lên tiếng “nói lại cho rõ” về những gì mà tớ đã từng tham gia, từng chứng kiến để “uốn nắn” lại mọi sự xuyên tạc lịch sử mà ở thời đại Internet này, chuyện kiểm chứng dễ như chơi!
Ví dụ: Không phải là Việt Minh cướp chính quyền trong tay Nhật Pháp (!) mà là có sự bàn giao đàng hoàng ấn kiếm, có tuyên bố thoái vị của vua Bảo Đại và sự từ nhiệm của “chính phủ Đế Quốc Trần Trọng Kim” mà trước đó ít ngày, Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp Trịnh đình Thảo đã ký lệnh thả tất cả các tù chính trị không phân biệt mầu sắc, tạo điều kiện cho khá nhiều vị tù nhân kịp ra nắm các chức vụ quan trọng trong các chính phủ chuyển tiếp sau này…
Còn tại Hà-Nội thì chính tớ, trên cương vị một thanh niên cứu quốc vô danh nhưng… hăng máu vịt đã đến tận Tòa Đốc Lý Hà Nội hậu thuẫn cho ông Nguyễn Quyết nhận bàn giao chính quyền từ Đốc Lý Trần văn Lai… Chuyện này nhân 19/8/2010, nếu ông Nguyễn Quyết không được mời lên T.V kể chuyện cũ… đã “bỗng dưng khai ra” nên tớ mới có dịp “nói lại cho rõ”. Bằng không nếu tớ có thề độc là: ”Sự thật nó thế này cơ!”, thì thế nào cũng có kẻ chưa đáng tuổi con tớ lên tiếng là: tớ “xuyên tạc”!
Sau đây là một vài chuyện lấp lửng, lươn lẹo, lọc lừa… mới:
– Việt Minh chính là sự nhập nhèm của cái tên “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội”, (hai từ “cộng sản” sức mấy mà dám chìa ra ở thời điểm bấy giờ ) nên mới được phe Đồng Minh ủng hộ!
Cụ thể là Mỹ đã cử phái đoàn quân sự Archimedes Patti đến tận chiến khu Việt Bắc, tiếp tế vũ khí đạn dược suốt cả năm trời rồi trực tiếp dự ngày ra mắt đội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân (22-12-1944) sát cánh cùng các nhà lãnh đạo “Hội” cho đến tận ngày cùng Việt Minh về tiếp quản thủ đô Hà Nội! (*)
– “Khúc quanh lịch sử” này mà theo tớ chính nhờ nó mà Việt Minh được sự hưởng ứng của đông đảo người dân trong đó có bọn thanh niên “quáng gà chính trị” cánh tớ, đã bị lấp liếm không thương tiếc!
Phái đoàn Archimedes Piatti (OSS) tại chiến khu Việt Bắc
– Về cái chết của ông Hồ, về bản di chúc của ông, ngày sinh, ngày chết tại sao nay thế này, mai thế khác???
Tất cả những gì mình đã chứng kiến, đã nghe trực tiếp từ các vị “to” nhất nhì nước nói ra, viết ra, mình đều sẵn sàng “đính chính”, ”uốn nắn” hoặc “bổ xung”, thì… đến năm nay… bỗng dưng đúng ngày ông “chết chính thức” ( đã được công bố ) thì… không một tờ báo nào, một buổi phát thanh, phát hình nào có được vài phút thắp hương “giỗ” cụ? Trái lại trên báo ANTG điện tử, tớ lại đọc được bài viết về việc “giữ thi hài bác” đã được chuẩn bị rất sớm và tuyệt đối bí mật ra sao? Theo b/s Lê Điều 85 tuổi, người cuối cùng còn sót lại trong đoàn bác sỹ lên đường sang Liên Sô học tập cho vụ “giữ xác” này nhớ lại là: đúng ngày 21/8/1967, nghĩa là… 2 năm trước, khi Bác còn mạnh khỏe?!
– Lại có chuyện lấp lửng gì đây?
– …
Điều đáng mừng là: tất cả những phát hiện của tớ về các “sơ sót” do cố tình hay vô ý hay do ngu dốt nên đã bôi bác, xuyên tạc lịch sử được không ít những phản hồi tích cực! Không hề có một ý kiến phản bác mà chỉ là những lời động viên khen tớ là… “trí nhớ còn… tốt” hoặc… “khá dũng cảm đấy!” (!?) ngay từ những người “đồng chí cũ” nay đang còn hoặc đã rời bỏ mọi chức vụ, quyền hành!
Cho đến năm nay…
Đối ngoại đang đứng trước nguy cơ bị “xâm thực” mà không cần súng nổ, bom rơi,… mà theo các nhà lý luận hiện đại là… mất nước theo kiểu “thực dân… siêu mới”: “bất chiến tự nhiên thành”…
Đối nội thì một “số không nhỏ” những đảng viên “cộng sản cái lỗ mồm”, đang thi nhau đục khoét, vơ vét, chia chác, bán chác hết cả tài nguyên, đất đai, biển đảo,.. cho nước “lạ”, ảnh hưởng đến sụ “tồn vong của Đảng (cái này thì có thể) và Quốc Gia”- (cái này thì không có thể) đến nỗi quần chúng mất lòng tin ở Đảng….
Cho nên:
Dù không phải năm chẵn, kỷ niệm 62 năm thành lập nước CHXHCNVN và 82 năm thành lập ĐCSVN, nhưng cũng đã được các cơ quan Tuyên và Giáo huy động tối đa mọi tài lực, nhân lực, mọi phương tiện “nhồi nhét tư tưởng” để viết lại lịch sử khá là… toàn diện và vô tư, coi như cả thế giới này đều…mù lịch sử cả nên muốn nói gì thì cứ nói, muốn viết gì thì cứ viết!
Đối với một nhân chứng lịch sử có gần 40 năm làm nghề Tuyên-Giáo của Đảng như tớ thì…. KHÔNG MỘT TƯ LIỆU LỊCH SỬ NÀO ĐƯỢC TUNG RA ẦM Ỹ THỜI GIAN QUA KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ!
1- Vai trò lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng được nâng lên một tầm cao mới một cách trâng tráo. Ví dụ: Thêm vào vai trò quyết định của Đảng Cộng Sản VN, các lãnh tụ Đảng ngay khi họ chưa về nước hoặc trong những năm Đảng đã tuyên bố… giải tán!
2- Xổ toẹt mọi quan điểm lịch sử khi đưa những cuộc khởi nghĩa tháng 8, ngày 2 tháng 9 kể các trận thắng Pháp,… trước khởi nghĩa… tất tần tật đều do “sự lãnh đạo tài tình của Đảng” cả! Thậm chí ngày 2/9/55 trong cuốn phim thời sự (phim màu) do R.Carmen quay, đoạn diễn văn của ông Hồ được một diễn viên nào đó (kém xa Tiến Hợi) thu tiếng lại rồi play back đã bị thêm bớt rất nhiều. Đặc biệt những câu bình luận về Đảng về chủ nghĩa xã hội sao mà nghe nó lạc điệu và gán ép đến mức… không chịu nổi!
Các chú Tuyên và Huấn không biết rằng: Thời buổi này chỉ cần một cái click chuột, mọi tài liệu, bản thảo viết tay, hình ảnh đều có thể hiện ngay trước mắt những người muốn kiểm tra xem các chú có nói thật hay không một cách dễ ợt!
Chẳng cần học hỏi đâu xa, hãy nhìn ngay lịch sử của Đảng Cộng Sản Cuba thì các chú sẽ thấy. Họ đàng hoàng viết rằng:
Và họ được chính J.F.Kennedy ủng hộ! Cho tới 10/1965 mới có chuyện Đảng Cộng sản do chính Fidel, một người chưa có một ngày là cộng sản, đứng ra lãnh đạo toàn dân với mục đích được đứng vào phe Liên Sô để đối đầu với cuộc phong tỏa bao vây, cô lập của Hoa Kỳ!
Trái lại ở VN, nhân ngày 19/8 và 2/9 người ta không ngừng ngợi ca công lao của những người cộng sản, làm đủ thứ lễ lạt, tưởng niệm, dựng tượng, xây đền đài những nhà cách mạng chết… trẻ mà ngay tớ khi 18 tuổi, đi theo cách mạng cũng chỉ nghe tên chứ cũng chẳng biết mấy cái ông này đã làm gì cho đất nước! Đã lâu…. bị bỏ quên không có ai dâng hương vái lậy gì sất thì năm nay, bỗng đồng loạt được tổ chức trong cái tháng cách mạng mùa thu này??!!! Hơn thế nữa người ta phóng tay phát động các cuộc tưởng niệm này rất rềnh rang, xây đền đài, khu di tích cho các “tiền nhân” này rất tốn tiền của người đóng thuế giữa lúc tình hình kinh tế theo t/s Lê Đăng Doanh là: “chưa bao giờ khó khăn như bây giờ”! Chỉ riêng ở Nghệ An đã chi đến trên 550 tỉ đồng cho ba khu lưu niệm, tượng đài, nhà thờ, của 3 ông cộng sản mà bây giờ bố tớ có sống dậy cũng như tớ (còn có 19 ngày nữa là “lên”… 87) cũng chẳng biết các ông ấy đã làm được cái gì cho nước Việt Nam mình?! Lý do: hầu hết đều sớm… “hy sinh vì lý tưởng” của… mấy ông Tây từ khi chưa kịp hoặc mới về nước làm cách mạng, những năm bản thân mình tuy đã 5, 10 tuổi nhưng thỉnh thoảng vẫn còn đái dầm! Vậy mà, rồi đây, các cháu sẽ phải “thuộc nằm lòng” những cái tên cha căng chú kiếc nào đó còn hơn cả những Quang Trung Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trần hưng Đạo… vì các vị này mới chỉ… “đưa được dân ta thoát vòng nô lệ” mà thôi! chứ còn lâu mới bằng mấy ông mà chúng tôi vừa mới lập đền đài, cúng kiếng đây, vì họ mới là anh hùng dân tộc bởi vì họ vĩ đại với cái lý tưởng SẼ… “dẫn năm châu tới Đại Đồng!” (SẼ mãi thôi nhé, chứ chưa hề đã hoặc đang bao giờ!)
Khổ thân cho các con, các cháu sau này chẳng biết được kẻ nào đã bắt nước ta làm nô lệ lâu hơn, tàn ác hơn cả Pháp và Đế Quốc Mỹ gấp đến cả chục lần, cũng như chẳng biết Hai Bà Trưng, Quang Trung, Lê Lợi… đánh đuổi giặc gì nữa! Gọi tổ tông các đồng chí 4 tốt là “giặc” nghe sao tiện, phải hông??!!! Nhỡ ra….
– Ngay cả việc đem những tài liệu cũ, những nhân chứng “đánh thắng giặc Mỹ” cũ, những phim ảnh cũ ra để ca ngợi sự lãnh đạo tài tình của “Đảng ta” không có thêm bớt gì, đối với một dân Tuyên Huấn cũ như tớ, tớ cũng thấy rất là… ”non tay nghề”! Ai đời muốn làm bạn với người ta, muốn người ta công nhận mình đang có nền kinh tế thị trường? (dù cái đuôi XHCN thì to đùng!) mà giữa thời buổi “muốn làm bạn với tất cả”, muốn “hòa hợp, xóa bỏ hận thù” mà cứ có dịp là lại không ngớt chửi người ta là “Đế Quốc Xâm Lược” là “bọn Đế Quốc Mỹ quỷ quái” là “bọn ngụy quân ngụy quyền tay sai đầu hàng nhục nhã trước sức tấn công vũ bão của quân ta” vv… vv… thì… đúng là… “thiếu nhạy bén”, đúng là… “vô chính trị” thiệt!
Cũng nhân hai cái “kỷ niệm 82 năm và 62 năm” này…
…………. Gần 70 cái đài Tivi trong cả nước cũng được dịp đua nhau lục trong kho tài liệu của quá khứ ra để dùng lại nguyên xi hoặc thêm bớt vài chỗ, những cuốn phim truyện,tài liệu cũ, đặc biệt là việc mời mấy ông “cưu chán binh”, nói không ra hơi, lắp ba, lắp bắp “lên mâm” kể chuyện về sự tài tình của “đảng ta” trong chiến dịch này, chiến dịch nọ… để hùng hồn vô tình minh chứng bằng người thật việc thật là: “Việc xé bỏ hiệp định Paris, kéo quân vào miền Nam hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế, cho Liên Sô, cho Trung Quốc…” là có thật! Việc quân đội miền Bắc dẫm đạp lên Hiệp nghị Genève tiến đánh quân đội miền Nam, nếu xưa kia cứ gân cổ cãi lấy được trên Đài phát thanh rằng là “vu cáo”, là “bịa đặt” thì hôm nay đây, các bố cựu chán binh lại lên giọng kiêu binh công khai kể lại các chiến công của mình cứ như… đàng hoàng tuyên bố lại với thế giới rằng: “Thời ấy, Đảng ông chủ trương oánh! thì ông oánh đấy! Làm gì ông nào!”
Tóm laị, toàn bộ “siêu chiến dịch tuyên truyền viết lại lịch sử” kéo dài cả tháng nay nhằm mục đích khẳng định: Mọi thắng lợi từ tháng 8/45 đến nay đều nhờ công đức “Đảng ta”, trong đó có cả công lớn của những “lãnh tụ” của các ông ấy, học trò trung thành của hai anh Tây Mác-Lê, dù đã chết ngay từ trước 45, ngay khi chưa làm được cái gì cho sự nghiệp vĩ đại ấy cụ thể cả thì nay bỗng cũng cực kỳ vĩ đại vì đến chết vẫn mang theo cái ý chí lớn lao giải phóng loài người! Gần 90 triệu dân nghe cho rõ! Hiểu chưa? Nhớ chưa?
Vậy thì… hôm nay đây, “Đảng Ta” có vấp phải một số khuyết điểm do một “số không nhỏ đảng viên” thôi mắc phải, thì… hãy cứ tin tưởng vào đảng chúng tôi đi! Sau vụ tắm rửa “phê và tự phê có biện chứng” này, mọi chuyện sẽ trở nên cực tốt! Đảng sẽ muôn năm còn sống mãi với đất trời… dù đất nước có mất tên đi nữa!…
Mệt quá! Còn 3, 4 vụ lấp lửng, lếu láo, lươn lẹo, lố lăng.. nữa nhưng thấy quá dài rồi, mà dẫn chứng các đường link chỉ tổ làm mất thời giờ của các em, các cháu nên…. tạm nghỉ cái đã…..
Tuy nhiên, trước khi ngừng gõ cũng cứ xin rỉ tai các nhà viện sỹ, lý luận gia, các hội đồng lý luận của Đảng: ai không biết internet là cái gì hoặc mắt đã quá lèm nhèm, hãy nhờ con cháu, thư ký, “chuyên ra” nó gõ vào Gúc-gồ, để mà thấy khẩu hiệu của Goebbel “nói dối, nói dối nữa, nói dối mãi, sẽ còn lại một cái gì đó” ở cái thời này, trẻ con nó cũng có thể tìm ra nhận ra là chúng bị lừa bịp đến dường nào khi chúng gõ vào cửa sổ Google vài chữ “Cách Mạng tháng 8” hoặc “chính phủ Bảo Đại”! Nhất là gõ được bằng nhiều thứ tiếng thì càng nhiều thông tin vô tư đến kinh ngạc! May ra có thể mở mang cái đầu óc bị u mê ra tí chút đấy!
……………….
Cùng với thời gian kỷ niệm cách mạng mùa thu này là cuộc kỷ niệm ồn ào chưa từng thấy về tình hữu nghị đặc biệt Lào-Việt nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Các phái đoàn to nhiều, to vừa, to ít… thay phiên nhau bay qua, bay lại gặp gỡ ôm ấp, hôn hít, bắt tay nhau tưởng chừng không thể nào gỡ ra nổi nữa. Đặc biệt trong các lời phát biểu, tuyên bố, bình luận trên các phương tiện truyền thông đại chúng thì:
1- Lịch sử nước Lào đã bị cắt cúp, đến mức… liều lĩnh!
2- Cố tình vứt vào sọt rác những cái tên mà chính ông cụ Hồ đã ôm hôn thắm thiết và đã… “tức cảnh sinh tình” ra mấy câu văn vần trong diễn văn đón Đoàn Chính phủ Liên Hiệp Vương Quốc Lào năm 1961 tại Hà Nội:
“Thương nhau mấy núi cũng trèo,
“ Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua,
“Việt Lào hai nước chúng ta
“Tình sâu hơn nước Hồng Hà-Cửu Long”
Vua Lào cùng Hồ chủ tịch dự lễ tụng kinh niệm Phật cho tình hữu nghị giữa hai dân tộc tai chùa Quán Sứ
Vì đâu? Vi ai? mà cái “tình sâu” này khi đón vua Vathana và Thủ tướng Souvana Phouma trở thành… nông choẹt? Trên Internet còn có thông tin nhà vua Lào sau cuộc giành lấy chính quyền của Pathet Lào năm 75 đã chết trong một trại cải tạo nào đó ỏ khắp nơi trên đất Lào đã giam giữ từ 3 đến 40.000 sĩ quan và công chức cao cấp! Y hệt ở miền Nam Việt Nam sau tháng Tư 1975!
Lịch sử vì sao bị lấp liếm giai đoạn nay? Câu trả lời thật quá dễ!
3- Nhân vật mới Phôm sa Vẳn lần này bỗng dưng trở thành lãnh tụ cộng sản lãnh đạo cách mạng Lào từ rất… sớm, rất nhiều thành tích (!) mặc dầu báo chí thế giới (cả C.I.A nữa) đều mất không ít công tìm hiểu xem ông ta ở đâu mà ra, khi thành lập chính phủ liên hiệp, ông ta xuất hiện như nhân vật quan trọng hoàn toàn mới, đứng đầu Pathet Lào, trên cả Hoàng Thân Suphanuvông với 1500 quân Pathet Lào trở về sát nhập vào quân đội của vương quốc, đường đường như một lãnh tụ của một tổ chức chính trị đối lập! Còn lãnh tụ của Neo Lào Hắc Xạt mà chủ tịch là Souphanuvông thì do chỉ nhận có chức Bộ Trưởng Tái Thiết-Công Chính trong chính phủ liên hiệp thôi nên cứ ngày một “mờ” dần để rồi được thay thế chính thức bởi ông Phôm Vi Hẳn bố Lào mẹ Việt trong mọi cuộc ra mắt hoặc được sắp xếp đương nhiên ngang hàng nhau khi gặp gỡ, ra tuyên bố giữa lãnh tụ hai nước Lào- Việt!
Hồ chủ tịch tiếp đón Thủ tướng chính phủ Liên hiệp Souvana Phouma và Hoàng thân Souphanuvông
Cho đến năm nay thì cái tên Phôm Vi Hẳn bỗng dưng được đẩy lên thành “người cùng Hồ Chủ Tịch dày công xây dựng tình hữu nghị đặc biệt Việt-Lào”! Riêng vai trò của Hồ Chí Minh trong “thắng lợi rực rỡ của cách mạng Lào” cũng được khẳng định là….: “Nhờ có Bác Hồ sáng suốt thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương”!? Trên kênh ANTV còn có cả một buổi phát sóng lấy cái tên rất… “vỗ ngực tự hào” là… ”Dấu ấn Hồ Chí Minh trên đất nước hoa Chăm Pa” nữa!
4- Ngay cái vụ kỷ niệm 50 năm ký kết ngoại giao với chính phủ liên hiệp vương quốc Lào (5/9/1963) đang được tuyên truyền ầm ĩ và kéo dài mấy hôm nay, đố tìm thấy một câu “hiệp định đó ký kết với ai”? Tất cả đều được tuyên bố lấp lửng! Không một bài báo nào dám viết và công bố cái hiệp ước ký kết giữa chính phủ Việt Nam Dân Chủ Công Hòa và Chính Phủ Liên Hiệp Vương Quốc Lào cả! Và tất cả những người đã hồ hởi ngồi vào bàn ký kết, bắt tay rồi ôm hôn, đã bị lịch sử của Đảng… “xóa sổ” là tại sao? vì lý do gì? Quả là khó giải thích và cũng không có cách nào giải thích khi chính người Lào cũng phủ nhận rằng cuộc chiến tranh chống Mỹ tại Lào là không phải của họ, không do họ và không vì họ!
Còn các cái tên như nhà vua Vatthana, Hoàng Thân SouvanaPhouma, tướng Coong le, sau năm 75, khi Pathet Lao tiến quân vào Vientiane thì số phận họ ra sao? Không một dòng tin về những con người đã từng được bắt tay hợp tác thắm thiết!
Một sự lấp liếm cố tình?
Sở dĩ tớ dám nói cụ thể chuyện chiến tranh chống Mỹ ở trên đất Lào là “vì Việt Nam, do Việt Nam” là bởi vì chính một số người Lào có cương vị khá to trong chính phủ nói thẳng vào mặt bọn tớ khi đầu những năm 80, tớ đi cùng NSND Phạm Kỳ Nam sang Lào để làm “hộ” bạn bộ phim “Tiểu Đoàn 2”, một sự giúp đỡ rất vô duyên và tốn kém khi các nhà Tuyên Huấn của “Ta” muốn “chế biến” lại cái lịch sử đánh Mỹ-Ngụy (Lào) của PathetLào…bằng cái chuyện “chiến đấu anh dũng” của Tiểu Đoàn 2, đơn vị đã sát nhập với quân đội vương quốc! Nhưng cuối cùng, sau 6 tháng vất vả trên các chiến trường xưa, khi bộ phim hoàn thành, đem chiếu cho Bộ Văn Hóa và Cục Điện Ảnh Lào sơ duyệt thì đã bị hàng loạt câu phê phán không nể nang mà cả hai thằng đều biết tiếng Pháp chúng tớ (Kỳ Nam+Tô Hải) muốn chui xuống đất cũng không được “non! non! Ce n’est pas vrai! c’est inacceptable..: Không! không thể chấp nhận được! Chuyện không thật! Bịa đặt qúa nhiều!”
Không thể tưởng tượng nổi người Lào đâu có bắn nhau như thế! vv…vv
Bộ phim đã không được đem chiếu,… để rồi… phải sửa chữa, sửa mãi đến nát bét cả phim ra rồi… đi đến kết luận được bạn hoàn toàn đồng ý: đưa về Việt Nam để sửa chữa đến. ..muôn năm! Một bài học cho cái nghề tuyên huấn chuyên bịa ra sự thật hoặc bóp méo Sự thật! Đặc biệt trong những lúc nói chuyện tâm tình với ông bạn Kỳ Nam học ở Pháp về và tớ nói tiếng Pháp cũng không tệ, ba anh cán bộ kể cả Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa, và cục trưởng cục điện ảnh Xôm Chít đều tha hồ “tự do tư tưởng”. ..Và gần như cả mấy cái đầu “phức tạp vì văn hóa Tây” này đều đi tới kết luận: “Không có cái cuộc chiến bẩn thỉu này thì đâu có chuyện cái xứ Đông Dương này cứ đánh nhau suốt và bọn mình cứ phải tranh cãi về những chuyện không đâu này!” Và những ngày sống kéo dài trên đất Lào để cố gắng cắt gọt, sửa chữa bộ phim “Tiểu Đoàn 2”, được đi đây đi đó, mình càng ngộ ra là:
a-/ Nếu không có ba cái anh tự nhận mình là cộng sản quốc tế, muốn đưa cái dân Lào hiền lành như đất này tới thiên đường cộng sản thì nước họ ngày nay cũng vẫn là một vương quốc, một đất nước thanh bình, chẳng bao giờ đánh nhau với ai, chẳng khi nào thiếu đói vì đất đai rừng núi. . thừa nuôi gần 3 triệu dân họ “một ngày làm, ba ngày lễ hội” từ bao đời!
b-/ Người Lào quá hiền lành để có thể phản ứng hoặc chống lại những sự xâm lăng rõ rệt khi những đội quân tình nguyện đầu tiên đổ bộ vào Sầm Nưa, Phong Xa Lỵ, .Xavanakhet, Cánh đồng Chum có khi lên đến 50.000 người để giup bạn “giải phóng” đất nước (?!) và nhất là từ tháng 5/1959 trở đi, người bắcViệt Nam bắt đầu mở đường Xẻ Giọc Nước Lào đi cứu….cả 3 nước Việt-Lào-Căm-pu-chia! Chưa có thống kê nào tách bạch được số lượng bom Mỹ đổ trên đường mòn Hồ Chí Minh thì phía Lào hay phía Việt Nam phải hứng chịu nhiều hơn?
Cho đến khi rút đoàn làm phim về, mấy anh Lào-Việt nói tiếng Pháp còn gặp nhau nhiều lần tại nhà một tay dược sỹ kinh doanh Việt Kiều đã từng đi trên 20 nước trên thế giới, nói thạo 4 thứ tiếng và đặc biệt có nhiều tài liệu báo hiệu sự xụp đổ tất yếu của chủ nghĩa cộng sản toàn thế giới để loạn đàm và xem đủ loại phim vidéo rất khó kiếm ở cái đất Việt mình! Tới nay tớ vẫn còn giữ cuốn “Từ một chủ nghĩa hiện thực vô bờ bến” của Roger Garaudy của dược sỹ Henry Phan tặng như một thứ quốc cấm cho mãi đến khi về hưu (1986) mới dám đặt nó lên tủ sách một cách đàng hoàng (nghĩa là những năm 1980, chuyện đi lại, tự do, sách báo, phim ảnh bên Lào đã còn “tự do” hơn bên ta cả mấy cái đầu).
Hôm nay đây, nếu ai có quyền hoặc có khả năng đi lục tìm trong kho lưu trữ của xưởng phim truyện Hà-Nội, thử cắn răng tìm lại bộ phim truyện có tên “Tiểu Đoàn 2” của đạo diễn Kỳ Nam (tên “Lào giả vờ” là gì tớ không nhớ) coi lại xem lịch sử Lào đã bị bôi bác ra sao! Nếu thấy tên nhạc sỹ: Sonhathuy chính cống là tớ đấy! Cũng có thể mấy ông Lào tiến bộ đã quẳng nó vào lửa vì chạm tự ái dân tộc do bị mấy nhà làm phim Việt khoác cho cái tội “hiếu chiến”, ”anh em một nhà chém giết lẫn nhau” như chính Xom Chit đã tuyên bố “Không thể có chuyện người Lào bắn giết nhau như những cảnh trong phim này được!” mà họ đã đốt nó đi như đốt vàng mã rồi!
..Nếu thế cũng hay. Đỡ bị…. xấu hổ!
Nói láo, làm láo đâu có thể tồn tại với lịch sử..!
Vậy mà hàng ngày chúng ta cứ phải vô tình nghe phải, đọc phải những điều cực kỳ, LẤP LỬNG, LỪA LỌC, LẤP LIẾM, LỐ LĂNG, LẬT LỌNG, LẾU LÁO để tức đến… LỘN LÈO!
Thì: Mấy ai nắm rõ Sự Thật như tớ, mà không phát tức đến phải… văng tục vài câu cơ chứ!
Posted in Tư Liệu Lịch Sử | Leave a Comment »
Posted by hoangtran204 trên 29/04/2012
Chợ Bến Thành ( cửa Đông ? )
Góc đường trông ra Nhà Thờ Đức Bà
Nhà Thờ Đức Bà
Dinh Độc Lập
Hội Trường Diên HồngKhách sạn Continental PalaceNhà Hàng nổi Mỹ CảnhTượng đài An Dương VươngHình Ảnh Thành Phố Saigon Của Nhóm Trưng Vương Gửi Đến( tiếp theo )
Theo em xuống phố … một thuở sống trong Thiên Đàng Hạnh Phúc miền Nam VNCH !!
Thủ Đô Sài Gòn … những ngày tháng TUYỆT VỜI !!
Con đường TÌNH … TA đi !!!
Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, đường Tự Do !!
Tigon
Saigon 1961
nguồn: vietlandnews.net
—————————————————————————————————————————————————-
Người dân Miền Bắc đã bị đảng CSVN lừa gạt trong cuộc chiến tranh VN. Đảng tuyên truyền “Miền Nam bị Mỹ Ngụy kềm kẹp, không có gạo ăn, không có chén bát, và bị hành hạ đủ điều…chúng ta phải vào giải phóng miền Nam ruột thịt. Chúng ta phải đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào, và thống nhất đất nước…và ta xây dựng đất nước tươi đẹp hơn 10 lần ngày nay”
Dạo ấy, những thanh niên thiếu nữ miền Bắc là những người hiền lành, nhân hậu, dễ tin, và là tầng lớp tuổi trẻ ưu tú. Họ đã không một chút nghi ngờ và đã nghe theo lời bác và đảng để vào giải phóng miền Nam. Người nào không nghe lời thì gia đình bị cắt tem phiếu, lương thực, và bị làm nhục…và cuối cùng là phải đi Nam.
Những cán bộ cao cấp nhất, và những người tuyên truyền và xúi dục chiến tranh đã ở lại hậu phương, ở cách xa chiến trận, ăn trên đầu và ngồi trên cổ của những người đi chiến đấu. Họ tồn tại cho đến sau khi cuộc chiến tranh VN đã tàn. Họ chia nhau chiến lợi phẩm là nhà cửa mặt tiền các khu phố, các kho hàng ở miền Nam, các tài sản của tư sản miền Nam mà họ cướp được, và đất đai của miền Nam. Ngày nay, họ còn chiếm đất đai của nông dân, dành độc quyền tất cả các ngành nghề công, thương, kỹ nghệ, du lịch, viễn thông, khai thác tài nguyên khoáng sản, xuất nhập khẩu…vào 100 công ty và tập đoàn, mà tổng giám đốc của các công ty quốc doanh này là con cái, bà con, anh em của cán bộ đảng cao cấp làm chủ hoặc lãnh đạo.
Còn những bộ đội và dân công đi vào Nam chiến đấu đã chết vì bom đạn trong khoảng thời gian 1954-1975. Thương thay cho các thế hệ miền Bắc đã hy sinh vào thuở ấy.
Miền Nam bị bóc lột, nhưng dân chúng sống như thế này…
Tết Mậu Thân 1968 (?)
Nguồn: on the net.
Thơ Tố Hữu
—————————————————————————————————
*Có rất nhiều hình ảnh của Sài Gòn trước năm 1975 trên mạng internet, chỉ cần vào trang mạng google.com gõ chữ hình ảnh Saigon trước năm 1975, và nhấp chuột vào chữ Search (tìm kiếm).
Các thành viên của Diễn đàn này có post khá nhiều hình rất đẹp. Mời các bạn click vào link dưới đây để xem.
Posted in Miền Nam trước ngày 30-4-1975, Tư Liệu Lịch Sử | 4 Comments »