V. Quốc Uy
(Suy ngẫm cùng Luật gia Lê Hiếu Đằng và TS Hà Sĩ Phu)
Trong bài viết Kiến nghị dừng khai thác bauxite…, Luật gia Lê Hiếu Đằng nêu lên tình trạng các cán bộ, đảng viên, báo chí, đại biểu Quốc hội cứ giữ im lặng, cứ “nhân nhượng, dĩ hòa vi quý với cái sai, cái nguy hại cho đất nước, cho dân tộc”, “không có ai lên tiếng thẳng thắn về những chuyện nghiêm trọng” như vụ khai thác bô-xít, cho thuê rừng đầu nguồn, vụ Vinashin, v.v., và ông quy nguyên nhân về nỗi SỢ.
Nỗi sợ thì không lạ, trước mắt là trăm ngàn nỗi sợ khác nhau, nhưng là một đảng viên khá cao cấp, ông Lê Hiếu Đằng đề cập đến một nỗi SỢ rất đặc biệt, rất “nội bộ”: đảng viên trong cùng một đảng lại sợ nhau, và ông tự hỏi “cớ gì bây giờ mình phải sợ hãi các đồng chí của mình”? Nỗi sợ này, theo ông Lê Hiếu Đằng là vô lý. Và để nhấn mạnh sự cực kỳ vô lý, ông khẳng định nỗi sợ này lại nằm trong những con người không hề nhút nhát, trái lại đã từng gan góc trước “kẻ thù” (lúc ấy), từng coi cái chết nhẹ như lông hồng! Vô lý nữa, tình “đồng chí” đã từng được coi là mặn nồng hơn cả tình ruột thịt, sao lại có thể sợ nhau?
Nghĩ rằng “nỗi sợ đồng chí” là vô lý, là không thể chấp nhận nên ông Lê Hiếu Đằng nhắn nhủ và động viên tất cả các đồng chí của mình, rằng hãy mạnh dạn lên tiếng trước các vấn nạn, như ông đã lên tiếng. Quả thực so với trước đây, bây giờ đã ngày càng nhiều đảng viên (và các cán bộ của Đảng) đã dám mạnh dạn lên tiếng. Ý kiến của ông Lê Hiếu Đằng đang có tác dụng thúc giục thêm, vậy đây là một ý kiến đáng trân trọng.
*Song, nếu nhìn toàn cảnh thì sự im tiếng, sự sợ hãi vẫn chiếm số rất đông, số đảng viên mạnh dạn lên tiếng còn lâu mới được 1 phần trăm! Nghĩa là vượt qua “nỗi sợ đồng chí” không phải việc đơn giản, bởi nỗi sợ ấy không vô lý như ta tưởng, mà nó có lý của nó. Có lẽ vì thế mà TS Hà Sĩ Phu đã khẳng định rằng muốn giải thích được nỗi sợ ấy cần vận dụng đến 3 điều không đơn giản là “sự hiểu biết, lòng trung thực và nhân cách”! Muốn “giải đáp cho ra ngọn nguồn” như lời TS Hà Sĩ Phu thật không đơn giản chút nào. Tôi xin mạo muội đề cập đôi điều góp phần lý giải vấn đề không đơn giản ấy.
Trong chiến tranh thì toàn Đảng và dân chúng (do Đảng lãnh đạo) ở cùng một phía, phía kia là thực dân Pháp hoặc Mỹ cùng với chính quyền miền Nam. Lúc ấy quyền và lợi cơ bản chưa có, chỉ có gian khổ hy sinh. Lúc ấy có thể nói “Đảng với dân là một”, huống chi cùng là “đồng chí” trong Đảng thì sự chia sẻ gian khổ với nhau còn hơn cả người thân. Chữ “đồng chí” lúc ấy thiêng liêng, đáng yêu đến mức Tố Hữu viết: “Thương nhau, anh gọi em: Đồng chí!”, gọi “đồng chí” là âu yếm hơn cả vợ chồng. Sau này khi mô tả lại, nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng viết “Đồng chí – tiếng ấm nồng máu đỏ”, tình đồng chí là tình máu thịt. Nếu “đồng chí” với nghĩa như vậy thì làm gì có chuyện “sợ” nhau như bây giờ? Lúc ấy, nếu cấp dưới có phải nghe lệnh cấp trên thì cũng là tự nguyện.
Nhưng chiến thắng là bước ngoặt phân ly, chấm dứt quan hệ cũ, bắt đầu quan hệ mới. Đảng lên nắm chính quyền một cách cố định không luân chuyển, lãnh đạo cả đất nước, đầy quyền uy. Dù có thương yêu nhau đến mấy, trong cấu trúc xã hội tự nhiên cũng phân thành hai cực, Đảng ở cực lãnh đạo (hay cai trị), dân ở cực bị lãnh đạo (hay bị cai trị). Không có lý thuyết xã hội học nào lại coi hai cực cai trị và bị trị “là một” cả, từ đây nếu còn nói “Đảng với dân là một” là duy ý chí. Quan hệ giữa hai cực “đối tác” ấy sẽ hài hòa hay bất ổn là phụ thuộc vào đường lối của giới cai trị có thuận lòng dân hay không, lợi ích có mâu thuẫn với lợi ích dân tộc hay không.
Song xét thực chất, quyền lực không nằm ở toàn Đảng, quyền lực chỉ nằm trong tay thiểu số Đảng viên trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương. Đa số đảng viên là “đảng viên thường” thực chất chỉ là công cụ để thực hiện những chủ trương của Bộ Chính trị và BCH Trung ương. Hơn 2 triệu “đảng viên thường” này nằm ở giữa hai cực cai trị và bị cai trị. Về danh nghĩa họ là “công dân loại 1”, được hưởng một số quyền lợi của đảng viên, nhưng vì họ là công cụ giao lưu trực tiếp với dân nên phần nào họ cũng gần dân, và về một số mặt họ bị thiệt thòi hơn cả dân thường. “Đảng viên thường”, hay đảng viên cấp dưới, có nhiệm vụ phải làm gương, vừa để cho dân trông vào, vừa làm bình phong che cho những tật xấu, những điều bất chính ở các cấp cao. Thậm chí, khi phạm tội lỗi mà bị dân phát hiện họ dễ dàng bị kỷ luật để tượng trưng cho tính nghiêm minh. Nhiều đảng viên thổ lộ rằng sự mất dân chủ trong đảng còn nặng nề hơn bên ngoài, “19 điều cấm” khiến cho “đảng viên thường” còn thua một công dân bình thường về quyền công dân.
Trong Đảng, trật tự tôn ty phân biệt rất rõ, phẩm trật trên dưới phân định quyền sinh quyền sát nghiêm khắc hơn thời phong kiến, thử hỏi các “đảng viên thường” tức đảng viên không giữ quyền lực không “sợ các đồng chí” nắm quyền ở thượng cấp sao được? Không thể tự ý ra khỏi Đảng, không được nói tiếng nói của lòng mình, đa số họ cũng đầy tâm tư, bế tắc, luôn sống trong nỗi sợ.
Lại xét đến những biến động ngay trong giới nắm quyền lực. Quyền lực biến đổi con người, lúc gian khổ họ khiêm nhường, nhân ái. Quyền càng to càng mau tha hóa, trở nên ham muốn vô bờ và mưu mẹo, sẵn sàng phản bội tình “đồng chí”, sẵn sàng cướp công, vu vạ, hãm hại “đồng chí” như chơi.
Hãy so sánh hai bài thơ mô tả tình đồng chí ở hai thời kỳ chưa cầm quyền và cầm quyền thì rõ.
Năm 1948, mấy ai không thuộc bài “Đồng chí” của Chính Hữu:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…
Nhà thơ Bùi Minh Quốc chỉ vì đòi quyền tự do sáng tác (theo đúng tinh thần nghị quyết 05 của BCT) mà bị khai trừ, năm 1988, trong bài “Những ngày thường đã cháy lên” ông viết:
Đồng chí – tiếng ấm nồng máu đỏ
Sao có lúc vang lên lạnh rợn thế này?
Đồng chí – dao đã nằm ém nhẹm dưới lòng tay
và mọi ngả đường đã giăng cạm bẫy!
Rồi năm 1997, trong bài “Hý trường” của tập “Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn” có đoạn:
Hậu trường có gì xôm không nhỉ?
Cuộc sát phạt vào màn hay ho
Đồng chí ăn thịt đồng chí
Nhạc hùng càng nổi to!
“Dao ém nhẹm du lòng tay”, “mọi ngả đường đã giăng cạm bẫy”, “đồng chí ăn thịt đồng chí” thì các đồng chí phải “sợ các đồng chí của mình” là lẽ đương nhiên, có gì là vô lý? Sự cạnh tranh chức quyền và “lợi ích nhóm” khiến cho cấp dưới sợ cấp trên đã đành, mà các cấp trên với nhau cũng “sợ” nhau từng giờ từng phút, nhất là trước thềm những Đại hội.
Báo chí của Đảng đang nêu bật mối lo sợ “tự diễn biến”, nhưng đây là sự tự diễn biến theo cả hai phía, một phía cấp tiến, gần lại hơn với nhân dân và thời đại dân chủ tự do, một phía bị tha hóa bởi quyền lực, miệng nói lý tưởng nhưng việc làm lại hy sinh lý tưởng cho lợi quyền riêng. Sự phân ly về hai phía không tránh khỏi ấy sẽ khiến cho tính chất “đồng chí” suy giảm dần, đến một lúc khó coi nhau là “đồng chí”, sẵn sàng quy kết nhau, thì sợ nhau là phải!
*Lấy quá khứ làm điểm tựa, Luật gia Lê Hiếu Đằng cứ giả thiết mọi người còn đồng tâm thực thi lý tưởng Độc lập – Dân chủ nên coi hiện tượng “đồng chí sợ đồng chí” là VÔ LÝ, cần khắc phục ngay. Trái lại, TS HSP với cái nhìn khoa học lại gợi ý rằng tình trạng này rất khó khắc phục vì “đồng chí sợ đồng chí” là rất CÓ LÝ, cần vận dụng cả “sự hiểu biết, lòng trung thực và cả nhân cách” mới lý giải được, nếu thiếu một trong ba nhân tố ấy, câu trả lời sẽ “ấp úng” ngay! Theo HSP thì đa số đảng viên và cán bộ vẫn cứ “tự kiểm duyệt” để biến những mệnh lệnh không văn bản của thượng cấp thành sự đồng thuận tự nguyện, để mọi thứ vẫn êm trôi như không có gì xảy ra. Khi nỗi sợ đã ngấm vào máu, đã thành bản năng sinh tồn thì những lời động viên khích lệ chưa đủ, cần sự tháo gỡ từ gốc! Phải làm sao để đảng viên không phải sợ Đảng, “đồng chí” với nhau không phải sợ nhau nữa?
Như vậy thì cả ý kiến của hai ông đều đúng, mỗi ý kiến đáp ứng một phần của hiện thực và có tác dụng riêng, cả hai gộp lại mới thành bức tranh toàn cảnh về “nỗi sợ đồng chí”. Nỗi sợ ấy vẫn là một trở ngại vô cùng nặng nề, ngăn cản sự thực hiện lời Đảng rằng phải “dũng cảm nhìn thẳng sự thật, nói hết sự thật”, ngăn cản việc đặt lên bàn những vấn nạn công khai để mổ xẻ thật cụ thể và tìm cách khắc phục hữu hiệu.
Cùng với Luật gia Lê Hiếu Đằng, ngày càng nhiều ý kiến đồng ý rằng “Dân chủ là giải pháp cho mọi vấn đề của đất nước”, nhưng cần nói tiếp: “chưa có được dân chủ trong Đảng thì chưa thể nói gì đến dân chủ cho xã hội”!
Làm thế nào chuyển được những nhận thức này thành hiện thực, chắc chắn đây không phải bài toán dễ dàng, nhưng chừng nào chưa giải được bài toán gốc này thì những việc hệ trọng cho quốc kế dân sinh như vụ Bauxite, vụ Vinashin, vụ Tàu cao tốc, vụ cho thuê rừng đầu nguồn, dù có đưa ra Quốc hội (nơi đại đa số là đảng viên) cuối cùng cũng chỉ loanh quanh dẫm chân tại chỗ, cứ “vũ như cẫn” hoặc càng xấu hơn.
Tháng 11-2010
V. Quốc Uy
http://danluan.org/node/7163
—-
Cảm ơn ông Lê Hiếu Đằng
Hà Sĩ Phu
Khi nhận được quà tặng, ta cảm ơn. Nhưng được nghe một lời nói thẳng chắt lọc, quý báu, còn hơn mọi thứ quà, càng đáng cảm ơn lắm.
Bài viết về Kiến nghị dừng khai thác bauxite của ông Lê Hiếu Đằng có gì mới?
– Trước hết, ông đề cập một thiếu sót trong nội dung bản kiến nghị: “Tôi muốn xin nhấn mạnh thêm về mặt an ninh quốc gia mà tôi nghĩ có thể vì sự “tế nhị” nào đó đã chưa được đề cập thỏa đáng trong Kiến nghị” ( hiện nay cứ tập trung vào tác hại đối với môi trường và hiệu quả kinh tế, ấy là một thiếu sót căn bản rất nguy hiểm).
– Lấy tư cách một người đã ký tên rất sớm vào hai lần Kiến nghị (lần thứ nhất do Gs Nguyễn Huệ Chi và toàn nhóm BVN khởi xướng, lần thứ 2 có 13 người khởi xướng vì ngoài nhóm BVN còn có 10 vị thuộc nhóm IDS cũ), ông đặt câu hỏi tại sao không có báo nào đăng nguyên văn Bản Kiến nghị ấy với danh sách 13 người khởi xướng? Ông viết: “Tôi xin thẳng thắn đặt câu hỏi: Có ai đã ngăn cản các phương tiện truyền thông công bố kiến nghị trên?”
“Nếu không phải như thế, thì tôi xin hỏi giới nhà báo nước ta: Tại sao các bạn phải sợ mà không dám đăng tải một kiến nghị có tầm quan yếu đến vận mệnh dân tộc, đã được lưu truyền khá lâu trên nhiều mạng, đã được chính thức gửi tới Quốc hội?”
Thêm nữa, ngay bài phỏng vấn Gs Chu Hảo và nhà giáo Phạm Toàn rất có ích trong vấn đề Bauxite đang nóng bỏng cũng không một tờ báo chính thức nào đăng tải?
– Ông nhắn nhủ những nhà lãnh đạo tối cao “Nhân đây tôi cũng xin qua mạng Bauxite Việt Nam để nhắn nhủ những đồng chí đã từng sát cánh chiến đấu với tôi ở nội thành Sài Gòn – Gia Định, các chiến trường miền Đông Nam Bộ, ven Sài Gòn… Đó là các đồng chí Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Lê Thanh Hải. Mong các đồng chí lên tiếng đấu tranh để ngăn chặn những nguy cơ cho đất nước như Dự án Bauxite và việc cho thuê rừng đầu nguồn nói trên”
– Ông thúc giục tính tích cực và phê phán tính tiêu cực trong mỗi chúng ta: “Đã đến lúc tất cả chúng ta, cán bộ, Đảng viên, nhân dân, phải có ý kiến, không thể nhân nhượng, không thể dĩ hòa vi quý với cái sai, cái nguy hại cho đất nước, cho dân tộc”
– Nhưng cuối cùng, điểm nhấn giá trị nhất của bài viết là chỉ ra cái điểm nút, giải thích hiện tượng vì sao CÁI TỐT CỨ CHỊU THUA CÁI XẤU. Tiêu điểm ấy là nỗi SỢ! “Chúng ta không có gì phải sợ, vì chúng ta trong sáng, chúng ta thực tâm yêu nước thương nòi, chúng ta làm đúng theo luật pháp, hiến pháp!”
Ông tự liên hệ bản thân: “tôi cũng có những lúc hơi e ngại khi cần lên tiếng đấu tranh cho lẽ phải. Những lúc ấy tôi tự nhắc mình: khi bị Toà án Vùng 3 Chiến thuật Sài Gòn kết án tử hình vắng mặt, mình vẫn coi khinh, vẫn mỉm cười và dấn thân chiến đấu, thì cớ gì bây giờ mình phải sợ hãi các đồng chí của mình?”
Trước kia không sợ kẻ thù, mỉm cười trước cái chết, nhưng “cớ gì bây giờ mình phải sợ hãi các đồng chí của mình?” Trước đây can đảm, bây giờ sợ sệt đã là điều lạ. Nhưng sợ ai, sợ chính “các đồng chí của mình” thì lạ quá, đau quá! Phải giải đáp cho ra ngọn nguồn là gỡ được cái nút của sự trì trệ.
Mình sợ hãi các đồng chí của mình, nhưng có đồng chí nào bắt mình phải sợ đâu? Trái lại đồng chí nào cũng giơ cả hai tay ca ngợi sự dũng cảm, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói hết sự thật, ghét nhất sự dối trá! Té ra đây là một nỗi sợ không văn bản! Không văn bản nhưng có hiệu lực bao trùm. Bí mật nằm ở đây.
Từ lâu trong mỗi người Việt Nam đã hình thành cái bản năng “Tự kiểm duyệt”: Cứ thính tai thính mũi, ngửi trong gió xem thực chất trong tim đen người cầm quyền muốn gì, yêu gì, ghét gì để chiều theo, chớ dại nghe lời nói công khai bởi đã quá hiểu “nói dzậy chứ không phải dzậy”, phần lớn trường hợp cứ làm ngược lại là trúng “đáp số”!
Ông Lê Hiếu Đằng kết thúc bài viết bằng một câu hỏi day dứt “cớ gì bây giờ mình phải sợ hãi các đồng chí của mình?”. Cớ gì? Cớ gì? Cớ gì?
Câu trả lời không khó, nhưng lời đáp là dành cho mỗi cá nhân. Tùy theo câu trả lời sáng sủa hay ấp úng mà mỗi người chúng ta tự xác định mình bằng sự hiểu biết, lòng trung thực và nhân cách!
11/11/2010
Hà Sĩ Phu
——
11/11/2010
Lê Hiếu Đằng
Luật gia, nguyên Phó Tổng Thư ký UB TƯ Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình VN, nguyên Phó Chủ tịch MTTQVN TPHCM. Hiện là Phó Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc UBTƯMTTQVN
Theo dõi hoạt động của Quốc hội những ngày qua, tôi rất đồng tình với việc vụ Vinashin đã được đưa ra nghị trường, nhiều đại biểu đã quy rõ và quy đúng trách nhiệm: chính Thủ tướng Chính phủ, người trực tiếp quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải chịu trách nhiệm cuối cùng về con tàu sắp chìm này. |
Tuy nhiên, tôi rất băn khoăn vì có hai vấn đề chưa được Quốc hội đề cập thỏa đáng: việc cho thuê đất rừng đầu nguồn và đại dự án bauxite. Mà đây lại là hai vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Nếu sụp đổ Vinashin chỉ là chuyện mất tiền, dù là tiền tỷ (đô la), thì hai vấn đề sau là chuyện môi trường sinh thái, tác hại lâu dài, và nghiêm trọng nhất, là chuyện an ninh quốc phòng, an nguy quốc gia.
Hôm nay tôi thấy cần phải lên tiếng thêm về vụ bauxite.
1/ Là một trong những người ký tên rất sớm vào Kiến nghị dừng khai thác bauxite ở cả hai lần, lần đầu do ba nhà trí thức Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Nguyễn Thế Hùng khởi xướng, lần hai do 13 nhà trí thức thuộc tổ chức IDS cũ và nhóm Bauxite Việt Nam khởi xướng, tôi thấy nội dung kiến nghị, đặc biệt là Kiến nghị lần hai gồm 5 điểm rất rõ ràng, thuyết phục. Kiến nghị này được đăng tải công khai, minh bạch, cho đến nay đã thu được gần 3000 chữ ký, trong đó có nhiều nhà khoa học, trí thức đầu đàn, nhiều bậc lão thành cách mạng, quan chức, tướng lĩnh, nguyên lãnh đạo cấp cao, có Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, có nhà toán học Ngô Bảo Châu – niềm vinh dự của trí tuệ Việt Nam, người vừa được Thủ tướng tiếp và đặc biệt cấp nhà (ông Ngô Bảo Châu không những đã ký tên cả hai lần, mà còn gửi một lá thư riêng cho các vị lãnh đạo đất nước đề nghị ngưng dự án).
Một Kiến nghị quan trọng như thế phải được công bố rộng rãi để mọi đại biểu Quốc hội và toàn dân biết. Như thế là cung cấp thông tin đa chiều để các vị đại biểu Quốc hội và nhân dân lựa chọn. Đại biểu và nhân dân phải có điều kiện đối chiếu những luận điểm bênh vực khai thác bauxite của Bộ Công Thương và tập đoàn TKV với những luận điểm phản biện của các trí thức trong Kiến nghị để suy nghĩ và rút ra kết luận.
Tôi xin thẳng thắn đặt câu hỏi: Có ai đã ngăn cản các phương tiện truyền thông công bố kiến nghị trên? Nếu có, thì đó là tước quyền được thông tin của nhân dân – quyền được hiến pháp và pháp luật bảo hộ, như thế người ngăn cản đã vi phạm pháp luật của nước CHXHCNVN.
Nếu không phải như thế, thì tôi xin hỏi giới nhà báo nước ta: Tại sao các bạn phải sợ mà không dám đăng tải một kiến nghị có tầm quan yếu đến vận mệnh dân tộc, đã được lưu truyền khá lâu trên nhiều mạng, đã được chính thức gửi tới Quốc hội? Như thế có phải các bạn đã từ bỏ cái quyền quan trọng nhất của mình và cũng là yêu cầu cao nhất của nhân dân với các bạn: thông tin trung thực những gì liên quan đến lợi ích của người dân? Tôi tin rằng tờ báo nào mạnh dạn đăng tải Kiến nghị nói trên sẽ chẳng bị ai bắt tù, ngược lại sẽ được nhân dân quý trọng.
2/ Bản kiến nghị đã nêu rõ mối lo về hiệu quả kinh tế, tác hại môi trường của Dự án Bauxite. Tôi muốn xin nhấn mạnh thêm về mặt an ninh quốc gia mà tôi nghĩ có thể vì sự “tế nhị” nào đó đã chưa được đề cập thỏa đáng trong Kiến nghị. Nhất là khi liên kết chuyện khai thác bauxite với việc cho thuê đất rừng đầu nguồn.
Trong việc xây dựng các nhà máy bauxite, ta thấy nhân công Trung Quốc vào rất đông. Thậm chí có hiện tượng hình thành “làng Trung Quốc” ở Tân Rai. Chúng ta không thể không đặt những câu hỏi: Trong số nhân công đó, có bao nhiêu quân nhân mặc áo dân sự? Họ làm gì ở đấy chúng ta có kiểm soát được không? Các chuyên gia Trung Quốc xây dựng nhà máy liệu có đủ thiện chí đảm bảo an toàn lâu dài cho việc khai thác bauxite, hay biết đâu họ không “gài” một khuyết tật nào đó để khi “có chuyện” nó sẽ trở thành một áp lực chính trị cho nhà nước ta?
Đặt những câu hỏi như trên không phải là quá đa nghi, mà xuất phát từ tinh thần cảnh giác có cơ sở. Vâng, lịch sử quan hệ Việt – Trung buộc chúng ta phải cảnh giác. Bản chất, mưu toan bá quyền của người hàng xóm khổng lồ không hề thay đổi. Những tư liệu gần đây được công bố chỉ ngày càng cho ta thấy rõ hơn bản chất đó. Và ngay trước mắt là vấn đề Biển Đông. Chưa nói đến hiểm họa về sông Mê Kông không xa. Tất cả đều nằm trong âm mưu bá quyền.
Tôi tiếp xúc với nhiều tướng lĩnh, tâm tư các vị rất không yên, các vị rất lo lắng cho sự an nguy của đất nước trước âm mưu xâm thực tinh vi của nước ngoài qua con đường kinh tế. Và cả những người dân bình thường, hầu như ai cũng lo ngại, cũng cảnh giác. Trong khi đó, hình như tinh thần cảnh giác của các vị lãnh đạo lại khá hời hợt, cho nên mới để lọt những chủ trương nguy hiểm như khai thác bauxite, cho thuê rừng đầu nguồn.
Tại sao có thể như thế? Tôi không sao trả lời được câu hỏi này. Có phải các vị chỉ chạy theo lợi ích kinh tế mà quên mối lo an nguy lâu dài của đất nước? Có phải các vị bị chi phối bởi các tập đoàn kinh tế? Đây là lúc các vị phải trả lời rõ ràng để giải tỏa những băn khoăn chính đáng của người dân.
3/ Tôi mong mỏi các đại biểu Quốc hội tập trung làm rõ hai vấn đề nghiêm trọng nhất: bauxite và cho thuê rừng đầu nguồn, đừng để bị lạc hướng vì những chuyện khác.
Nhân đây tôi cũng xin qua mạng Bauxite Việt Nam để nhắn nhủ những đồng chí đã từng sát cánh chiến đấu với tôi ở nội thành Sài Gòn – Gia Định, các chiến trường miền Đông Nam Bộ, ven Sài Gòn… Đó là các đồng chí Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Lê Thanh Hải. Mong các đồng chí lên tiếng đấu tranh để ngăn chặn những nguy cơ cho đất nước như Dự án Bauxite và việc cho thuê rừng đầu nguồn nói trên.
Tôi cũng muốn nhắn với đoàn đại biểu Quốc hội của TPHCM là tôi rất buồn vì trong đoàn không có ai lên tiếng thẳng thắn về những chuyện nghiêm trọng như trên. Thử hình dung nếu bùn đỏ bauxite đổ xuống thì cả vùng Đông Nam Bộ, TPHCM sẽ nguy ngập thế nào? Tương lai con cháu chúng ta sẽ ra sao?
4/ Đã đến lúc tất cả chúng ta, cán bộ, Đảng viên, nhân dân, phải có ý kiến, không thể nhân nhượng, không thể dĩ hòa vi quý với cái sai, cái nguy hại cho đất nước, cho dân tộc. Chúng ta không có gì phải sợ, vì chúng ta trong sáng, chúng ta thực tâm yêu nước thương nòi, chúng ta làm đúng theo luật pháp, hiến pháp.
Bản thân tôi cũng có những lúc hơi e ngại khi cần lên tiếng đấu tranh cho lẽ phải. Những lúc ấy tôi tự nhắc mình: khi bị Toà án Vùng 3 Chiến thuật Sài Gòn kết án tử hình vắng mặt, mình vẫn coi khinh, vẫn mỉm cười và dấn thân chiến đấu, thì cớ gì bây giờ mình phải sợ hãi các đồng chí của mình?
L. H. Đ.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
http://boxitvn.blogspot.com/2010/11/kien-nghi-dung-khai-thac-bauxite-do-cac.html
—–
Cùng nguyện vọng, cùng mục tiêu và cùng làm…
Nguyễn Hoàng thực hiện 9-11-2010
Thời gian qua, có nhiều ý kiến đặt ra xung quanh mối quan hệ giữa nhóm Bauxite Việt Nam (gồm GS. Nguyễn Huệ Chi, GS. Nguyễn Thế Hùng, Nhà văn Phạm Toàn) và Nhóm IDS cũ do GS. Hoàng Tụy làm Chủ tịch. Nhất là gần đây, trong thư gửi các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội kiến nghị về Dự án Bauxite Tây Nguyên của 16 nhân sĩ, trí thức, người ta lại không thấy có ai thuộc nhóm Bauxite Việt Nam, những người cùng tham gia khởi xướng sự kiện này. Rất may khi đi tìm câu trả lời, tình cờ chiều ngày 3/11, ngay tại trụ sở NXB Tri thức, chúng tôi đã may mắn được gặp Nhà văn Phạm Toàn (Bauxite Việt Nam) và GS. Chu Hảo (IDS cũ) khi các ông đang trả lời phỏng vấn cô Marie Blondiau của Đài RFI và ông Nicolas Bariquand của tờ Libération.
Càng gắn bó chúng tôi hơn
Trước hết, xin được hỏi hai ông, vì sao các nhà báo Pháp này lại gặp hai ông ở đây?
Nhà văn Phạm Toàn: Việc gặp gỡ giữa tôi và anh Chu Hảo thì khỏi nói vì chúng tôi là anh em, bè bạn từ lâu và vẫn gặp nhau thường xuyên. Còn về hai nhà báo nước ngoài, họ đã phỏng vấn riêng tôi hai lần về giáo dục và lần này, họ đến hỏi chúng tôi xung quanh chuyện bauxite, điều mà họ quan tâm. Có lẽ họ biết anh Huệ Chi, anh Chu Hảo, cũng như tôi … mấy anh em đều tâm huyết với đất nước, với dân tộc; họ tìm phỏng vấn chúng tôi là những người trong cuộc.
Thưa Nhà văn Phạm Toàn, ông nói đây là quan hệ cá nhân hai anh hay quan hệ giữa Bauxite Việt Nam và nhóm IDS cũ?
Đối với công việc cụ thể này, chúng tôi là những cá nhân chứ không đại diện cho ai cả. Tuy nhiên, như các bạn thấy, nhóm Bauxite Việt Nam và các thanh viên của IDS (cũ) có cùng một nguyện vọng. Nhân thảm họa bùn đỏ ở Hungary, chúng tôi cùng nhau liên kết nhiều nhà khoa học, chính khách và nhân sĩ trí thức tham gia vào Kiến nghị mới đây về vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên, công việc chung cũng tốt, đồng thời càng gắn bó chúng tôi với nhau hơn.
Còn GS. Chu Hảo, ông nói sao về sự việc này?
GS. Chu Hảo: Bản kiến nghị này ra đời bắt đầu từ Thư ngỏ của anh Nguyễn Trung (thành viên IDS cũ, nguyên trợ lý của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Nhiều anh em trong IDS cũ nhận thấy đây là một vấn đề hệ trọng và một cơ hội tốt để xem xét lại vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên, nên đã đề nghị anh Trung, cùng một số anh em khác, bổ sung và sửa chữa Thư ngỏ đó thành một bản Kiến nghị đầy đủ, chặt chẽ hơn về mặt khoa học và pháp lý. Tiếp theo, chúng tôi liên hệ với anh Huệ Chi để sửa chữa, bổ sung và hợp tác đưa Kiến nghị này lên trang mạng của Bauxite Việt Nam. Anh Huệ Chi đã nhiệt tình coi đây là công việc chung của cả hai nhóm và mau chóng giới thiệu trên mạng Bauxite Việt Nam. Chúng tôi đánh giá cao sự hợp tác và tinh thần trách nhiêm đối với công việc chung của anh ấy.
Không ký “tươi”không có nghĩa là vắng bóng
Xin cho tôi được hỏi thẳng. Các ông (IDS) đều biết nhóm Bauxite Việt Nam là những người cùng tham gia khởi xướng chuyện này, nhưng trong Thư kiến nghị của các ông lại không có tên ai thuộc Bauxite Việt Nam. Đó phải chăng là điều thiếu tế nhị?
Nhà văn Phạm Toàn: Điều chúng tôi quan tâm lúc này không phải là tế nhị hay không tế nhị mà hiệu quả công việc. Nhóm Bauxite chúng tôi hay anh em bên IDS cũ làm thì cũng có gì khác nhau đâu vì đều là anh em, thân thiết với nhau cả. Quan điểm chung của chúng tôi là làm thế nào không quan trọng, miễn là kịp thời và hiệu quả là được.
GS. Chu Hảo: Chúng tôi cũng đã nghĩ đến việc này nhưng do phải có chữ ký trực tiếp (“tươi”, mang tính đại diện tượng trưng để gửi đến đích danh các vị lãnh đạo) mà anh Huệ Chi thì đang ở Mỹ, anh Thế Hùng thì ở Đà Nẵng còn anh Phạm Toàn thì đang bận với nhóm Cánh buồm (làm SGK tham khảo mới từ lớp Một do Nhà giáo Phạm Toàn chủ biên). Trong tình thế “nước sôi, lửa bỏng” như vậy nên việc không có chữ ký “tươi” của các anh ấy cũng không có nghĩa là vắng bóng các anh ấy.
Mấu chốt cuối cùng là hiệu quả
Đành rằng với các ông thì không sao nhưng dù sao, để “quan trên trông xuống, người ta trông vào”… ?
Nhà văn Phạm Toàn: Với tôi, điều quan trọng nhất của trí thức là trí tuệ và sự trung thực. Tôi không theo học bất cứ giáo sư nào trong những nhân sĩ ký tên nhưng tôi thường coi mình là học trò của những người như GS. Hồ Ngọc Đại, GS. Hoàng Tụy hay Nhà văn Nguyên Ngọc. Riêng với Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, tôi kính trọng cả một bề dày nhân cách từ gia đình tới cá nhân của Bà.
GS. Chu Hảo: Tôi nghĩ rất đơn giản rằng, cách nào thì cũng phải đạt hiệu quả cao trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Anh em bên Bauxite hay chúng tôi cũng đều có cùng một tâm niệm là làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một trí thức đối với đất nước. Chúng tôi (Bauxite Việt Nam và nhóm IDS cũ) cũng như hàng ngàn văn nghệ sĩ, trí thức, các nhà khoa học, hoạt động xã hội và người dân bình thường… đã ký tên qua mạng, cùng hàng vạn người dân tham gia bỏ phiếu thăm dò trên các phương tiện thông tin đại chúng của Dân trí, Vietnamnet; thậm chí, cả những người không ký tên nhưng ủng hộ những ý kiến của chúng tôi… đều có chung một nguyện vọng, một mục tiêu. Là những người thực tế, như anh Toàn đã nói, chúng tôi ít quan tâm đến sự “tế nhị” mà mấu chốt là cùng làm để đạt nguyện vọng và mục tiêu chung ấy
Đúng là trước vấn đề nghiêm trọng và gấp rút như hiện nay mà còn bàn đến việc “tế nhị” hay không “tế nhị” có lẽ là điều không cần thiết. Xin hỏi hai ông, các ông có hi vọng những kiến nghị của mình được chấp thuận?
Nhà văn Phạm Toàn: Tôi nghĩ tác dụng lớn nhất của sự việc này là ở chỗ thức tỉnh trách nhiệm “sĩ phu” đối với Tổ quốc, với nhân dân, dân tộc. Còn sự việc được đến đâu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhận thức, quyền lực, tâm lý… Điều tôi quan tâm nhất là nâng cao nhận thức của mọi người, từ người “cao” nhất đén người “thấp” nhất, để từng người biết trách nhiệm của mình mà tự xử thế.
GS. Chu Hảo: Tôi tán thành với anh Phạm Toàn nhưng cụ thể hơn một chút. Tôi nghĩ trước hết, Đảng, Nhà nước cần bình tĩnh xem xét lại để có những biện pháp đúng, phù hợp với những phân tích khoa học khách quan cùng với ý nguyện chính đáng của nhân dân; và gần đây nhất là ý kiến của các đại biểu Quốc hội trong kỳ họp đang diễn ra này. Nếu ngay trong kỳ họp này Quốc hội khóa XII có quyết nghị về vấn đề này thì nhân đân sẽ rất hoan nghênh. Nếu không thì vấn đề này phải để lại cho nhiệm kỳ tới, và trước sau thì Quốc hội cũng tìm được giải pháp tối ưu, hợp với lòng dân.
Xin cám ơn hai ông!
N. H.
Những người được phỏng vấn gửi trực tiếp cho BVN
9-11-2010
http://boxitvn.blogspot.com/2010/11/cung-nguyen-vong-cung-muc-tieu-va-cung.html
http://danluan.org/node/6969