Trần Hoàng Blog

►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 27)

Posted by hoangtran204 trên 30/10/2013

Tất cả ủy viên Bộ Chính trị của Đảng CSVN luôn luôn ngã rạp mình trước các đảng viên cao cấp của đảng CSTQ. Điều gì đã làm cho họ kinh sợ TQ đến như vậy? Người bình thường cũng đoán ra TQ hẳn đang nắm được bí mật nào đó mà đảng CSVN luôn che dấu…

Trần Hoàng

“Tôi không biết Bộ chính trị và Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam đang nghĩ gì và làm gì.  Nhưng có một điều tôi biết chắc chắn: Họ không muốn, tuyệt đối không muốn chúng ta biết những gì họ đang làm và đang nghĩ.”  (Nguyễn Hưng Quốc).

Một trong các bí mật mà họ không muốn ai biết là Hội Nghị Thành Đô ở Bắc Kinh 1990. Đảng CSTQ và nhà nước TQ nhiều lần bóng gió hăm dọa công khai chi tiết hội nghị Thành Đô ra cho mọi người biết, thế là đảng CSVN và Nhà Nước VN lo sợ sốt vó, vội vã van lạy và chạy qua TQ xin cầu hòa.

Ông Dương Danh Dy, cựu Tổng Lãnh Sự của VNDCCH tại Trung Quốc, hiện sống ở Hà Nội, đã vén chút màn bí mật và úp mở cho biết duy nhất bằng câu: “Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã…” và ông không dám bàn thêm gì tiếp,   “Hậu quả tai hại của Hội Nghị Thành Đô”BBC  (25-10-2014)

Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) lên nắm chức Tổng Bí Thư 1986, tức khắc nối lại bang giao với Trung Quốc 1990 bằng 1 câu nói để đời trong lịch sử: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng mất nước còn hơn mất Đảng”.

Sau khi TQ kéo giàn khoan vào Biển Đông và ngang nhiên khoan dầu khí, đảng và Nhà Nước VN khóc la chói lói và lên tiếng phản đối trong 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 8, 2014).

Nhưng đột nhiên, TBT Nguyễn Phú Trọng phái Ủy viên BCT Lê Hồng Anh qua TQ ngày 26-8-2014…và rồi mọi chuyện yên ắng trở lại.

Mời các bạn đọc bài:  ►Trung Quốc “thuần hóa” đứa con hoang: Sau phút bốc đồng chuyện Biển Đông, đảng CSVN nay đã tâm phục, khẩu phục, ngoan ngoãn qui thuận trở về nhà và vào khuôn phép cũ

Trở lại chuyện Hội Nghị Thành Đô, mời các bạn đọc hai bài viết ngắn  Bối cảnh dẫn tới hội nghị Thành Đô 1990 trước khi đọc Những Sự Thật Cần Phải Biết (phần 27) để thấy rõ cái KHÔN LỎI của BCT và đảng csvn như thế nào.

Những chiêu bài như yêu nước, yêu dân tộc, giải phóng, độc lập, thống nhất, đổi mới, ‘Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông’… là nhưng cú lừa ngoạn mục. Đảng và Nhà nước biết rõ, chỉ một thời gian ngắn sau đó, mọi người VN đều quên hết các vụ lừa đảo của họ, vì ai cũng phải lo chuyện đời sống. Và cứ thế, họ tiếp tục độc quyền cai trị VN, gìn giữ uy tín, sự tồn tại  và các bí mật của đảng và nhà nước mới là quan trọng.

Trung Quốc  bảo kê cho đảng CSVN tiếp tục nắm quyền cai trị, nắm giữ các bí mật về HCM, có trong tay các mật ước mà HCM, LD đã ký với Mao Trạch Đông 1950s, 1960s, và nắm giữ các bí mật ký kết trong Hội nghị Thành Đô 1990.

Lâu lâu, Trung Quốc xâm chiếm Biển Đông, chiếm các đảo HS, TS, Gạc Ma…, và chỉ cần dọa sẽ đưa ra công khai các bí mật giũaư hai đảng đã ký kết, thế là đảng CSVN và nhà nước nín khe. Cứ thế, TQ chiếm dần Biển Đông và các quần đảo HS, và TS, và các vùng đất biên giới phía Bắc.

Loạt 10 bài trong link sau đây cho thấy 18 tỉnh VN đã cho Trung Quốc thuê 382.000 hecta đất (3820 km vuông) trong thời hạn 50 năm, với giá 9 đô la/1 hecta/1 năm. 

Đọc bài này để thấy nước VN đã không may mắn vì bị CAI TRỊ bởi một bọn học lực tiểu học, đạo đức thấp kém, hành vi nhỏ nhen, nhưng sự tham lam tâm địa độc ác của chúng thì không ai qua nổi. 

Hiện nay, nhà nước cs đã gia tăng tuổi hưu trí lên 62 tuổi, điều này có khả năng là bộ tứ Hùng, Dũng, Sang, Trọng có người sẽ ngồi thêm 1 nhiệm kỳ 5 năm nữa để kềm kẹp cho con cháu của họ nối ngôi.  

TIẾT LỘ TỪ WIKILEAKS: HỘI NGHỊ SÁP NHẬP VIỆT NAM VÀO CHINA  (post cuối bài này)

Bài mới: tháng 7 và tháng 8-2014:

Đại tá quân đội NDVN Nguyễn Đăng Quang (8/2014), Thiếu tướng Lê Duy Mật (7-2014) đã viết thư đòi hỏi BCH và Ban bí thư Trung Ương đảng công bố chi tiết về các điều khoản mà đảng CSVN đã ký kết với TQ trong Hội nghị Thành Đô.

Ngày 2-9-2014, 6 cựu tướng lãnh và 14 đại tá trong Lực Lượng Vũ Trang thuộc QĐ Nhân Dân VN đã cùng ký tên yêu cầu đảng công khai cho biết các chi tiết trong Hội Nghị Thành Đô 1990.

Những sự thật cần phải biết (Phần 27):

Nguyễn Văn Linh – Một trong những ông trùm bán nước

Đặng Chí Hùng (Danlambao) –

 Nguyễn Văn Linh là người được đảng cộng sản che đậy bằng mỹ từ “Đổi mới” và “những việc cần làm ngay”. Nhưng cũng giống như Võ Văn Kiệt, chính Nguyễn Văn Linh là người tạo nên cái cũi màu đỏ để rồi lừa dối nhân dân là “phá cũi”. Và quan trọng hơn. Nguyễn Văn Linh là kẻ bán nước. Trong bài viết này sẽ cho thấy những điều đó là sự thật.

I. Nguyễn Văn Linh và “giải pháp đỏ”:

 
Nguyễn Văn Linh
Theo sách vở của cộng sản cho biết về tiểu sử Nguyễn Văn Linh như sau:
 
“Đồng chí Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 1-7-1915 trong một gia đình công chức tại Hà Nội, quê ở xã Giai Phạm, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
 
Sớm giác ngộ cách mạng, đồng chí đã tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo, từ lúc 14 tuổi. Ngày 1-5-1930, khi rải truyền đơn chống đế quốc, đồng chí bị địch bắt, kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo.
 
Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp, đồng chí được trả tự do. Ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động trong công nhân lao động ở Hải Phòng, Hà Nội và được kết nạp vào đảng Cộng sản Đông Dương.
 
Năm 1939, đồng chí được đảng điều động vào công tác ở Sài Gòn, tham gia Ban Chấp hành đảng bộ thành phố. Cuối năm 1939, đồng chí được Trung ương cử ra miền Trung công tác nhằm lập lại Xứ ủy Trung Kỳ.
 
Đầu năm 1941, đồng chí bị địch bắt ở Vinh, chúng đưa về Sài Gòn xử án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí được đón về Nam Bộ hoạt động ở miền Tây, sau đó lên Sài Gòn – Chợ Lớn trực tiếp lãnh đạo kháng chiến với các chức vụ Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định.
 
Năm 1947, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Xứ ủy Nam Bộ, năm 1949, đồng chí tham gia Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
 
Từ năm 1957 đến năm 1960, đồng chí là quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
 
Tháng 9-1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương chỉ định làm Bí thư Trung ương Cục và sau đó là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
 
Năm 1976, đồng chí được cử làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
 
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của đảng (12-1976), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng.
 
Từ tháng 4-1977, đồng chí thôi giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh để giữ các chức vụ Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng ban Dân vận – Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến năm 1980. Từ cuối năm 1980 đến cuối năm 1981, đồng chí được phân công theo dõi thực hiện nghị quyết của đảng và Chính phủ ở các tỉnh miền Nam.
 
Tháng 12-1981, đồng chí được phân công trở lại làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho đến tháng 6-1986.
 
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của đảng (3-1982), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 6-1985, tại Hội nghị Trung ương 8, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị.
 
Tháng 6-1986, đồng chí được bầu vào Ban Bí thư Trung ương đảng và được phân công làm Thường trực Ban Bí thư.
 
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng (12-1986), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và được Trung ương bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
 
Tháng 6-1987, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VIII.
 
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) và lần thứ VIII (6-1996) của đảng, đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương đảng.
 
Đồng chí từ trần ngày 27-4-1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
 
Đồng chí Nguyễn Văn Linh là một nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo của đảng và cách mạng Việt Nam. Là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng ầu tiên của thời kỳ đổi mới, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có nhiều đóng góp quan trọng, cùng Trung ương đảng triển khai và đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, làm xoay chuyển tình thế, đưa đất nước tiếp tục tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.” [1]
Cũng giống như rất nhiều lãnh đạo cộng sản khác, trong phần lý lịch không có phần học vấn lúc ban đầu tương tự như Đỗ Mười, Nguyễn Tấn Dũng vv… Nguyễn Văn Linh cũng không là ngoại lệ.

Theo thông tin lề đảng về lý lịch, thì Ngày 1-5-1930, Nguyễn Văn Linh bị thực dân Pháp kết án tù chung thân, đày ra Côn Đảo, tức là năm Linh 14 tuổi. Có một điều cần phải nhớ là điều luật của nước Pháp không xử tù tuổi vị thành niên. Ví dụ như trường hợp ông Nguyễn Hữu Đang, sinh năm 1913, hoạt động trong tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, bị bắt 1930, năm 1931, khi ra tòa đã 17 tuổi, vẫn được tha bổng vì còn vị thành niên. Nguyễn Văn Linh khi ra tòa mới 14 tuổi 10 tháng, mà bị xử tù chung thân là một điều cần phải xem xét lại vì cộng sản vốn khai man lý lịch.

 

Nguyễn Văn Linh đến thăm một xí nghiệp

Năm 1976, Nguyễn Văn Linh lại được làm Bí thư Thành ủy thành phố Sài Gòn (Nay đã bị đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh), Võ Văn Kiệt làm Phó bí thư, kiêm Chủ tịch Ủy ban nhận dân thành phố. Chưa đầy một năm, ngày 20 – 12-1976, tại Đại hội đảng Toàn quốc lần thứ IV, Nguyễn Văn Linh được bầu tiếp vào Ủy viên Trung ương đảng, Ủy viên Bộ chính trị, và Ban bí thư Trung ương, nhưng phải nhường chức Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh cho ông Võ Văn Kiệt, Ủy viên dự khuyết Bộ chính trị.

Nguyễn Văn Linh được phân công làm Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa, Trưởng ban Dân vận Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc VN, và Chủ tịch Liên đoàn lao động Việt Nam. Ba cái ghế ấy không thể so sánh với cái ghế Bí thư Thành ủy Sài Gòn.

Nhưng tất cả tội lỗi của Nguyễn Văn Linh bắt đầu từ việc xác quyết trong hội nghị Thành Đô, Trung Cộng từ 3 đến 5 tháng 9-1990.

Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới trí thức ở Việt Nam đã chuyền tay nhau tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao. Tập hồi ký 82 trang (khổ A4, viết xong lần thứ nhất năm 2001, hoàn thành tháng 5-2003) chưa được xuất bản công khai (Hồi Ký Trần Quang Cơ  ). Với nội dung phong phú, chính xác và trung thực, tác giả cung cấp những thông tin quý hiếm về những vấn đề Việt Nam đương đại.

Tác giả làm việc ở Bộ ngoại giao từ năm 1954. Năm 1968 ông tham gia Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng giải quyết vấn đề Campuchia (thập niên 80-90 thé ký 20).

Năm 1991, được đề nghị làm Bộ trưởng Ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch, ông viện lý do “sức khỏe” để từ chối. Cuối năm 1993, ông xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng. [2]

 

Nguồn  Hồi Ký Trần Quang Cơ  

http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co

 

Theo ông Trần Quang Cơ, ngày 29-8-1990, đại sứ Trung Cộng Trương Đức Duy, gặp Nguyễn Văn Linh ở Hà Nội, chuyển thông điệp của Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc, và Lý Bằng, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc, mời Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười, Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung cộng ngày 30-9-1990 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hòa quan hệ hai nước.

Trương Đức Duy nói mập mờ rằng, Đặng Tiểu Bình có thể gặp Phạm Văn Đồng, và lấy cớ Bắc Kinh đang tổ chứ Á vận hội ASIAD, sợ lộ bí mật nên phải gặp nhau ở Thành Đô.

Đây là chuyện rất đột ngột, bởi mới 5 ngày trước, Trung Cộng khăng khăng không muốn bàn chuyện bình thường hóa, mà đòi phải giải quyết vấn đề Campuchia trước. Theo Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng ngoại giao nhận định: “Sự thay đổi đột ngột của Trung Cộng là do họ cần thực hiện 4 hiện đại hóa, nhưng bị Mỹ, Nhật, Liên Xô và các nước cấm vận sau vụ đàn áp Thiên An Môn, nên phải tìm cách thoát ra. Bên cạnh đó, Trung Cộng thấy Mỹ, Nhật, đặc biệt là các nước trong khối ASEAN, tỏ thái độ thân thiện với Việt Nam, nên muốn phá ta”.

Nhưng quan điểm của Nguyễn Văn Linh lại khác. Ông ta triệu tập họp Bộ chính trị và cho ý kiến:Tranh thủ Trung Quốc, hợp tác với Trung Quốc, để bảo vệ Xã hội chủ nghĩa!

(chú ý: Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay, là con của Nguyễn Cơ Thạch; Phó Thủ tướng Nguyễn Thị Kim Ngân là con của Nguyễn Văn Linh)

Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu (1989-1990), đặc biệt là Rumani mà Nguyễn Văn Linh vừa thăm, đã tác động rất lớn tới ông ta, làm cho Nguyễn Văn Linh quyết định đi theo Trung công – kẻ thù ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Mặc dù Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công, Trần Xuân Bách can ngăn, nhưng Nguyễn Văn Linh không nghe, vẫn giữ quan điểm: Hợp tác với Trung Quốc, bảo vệ XHCN chống đế quốc!”.

Nguyễn Văn Linh đã bị ám ảnh bởi cái gọi là “Diễn biến hòa bình” và say mê mật ngọt của Trung Cộng “16 chữ vàng”, “4 tốt” tại Hội nghị Thành Đô. Quan điểm theo Tàu của Nguyễn Văn Linh được Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Đào Duy Tùng. . . ủng hộ.

Và thế là, ngày 2-9-1990, dù đang kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 45 năm, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng vẫn đi Thành Đô, với sự tháp tùng của Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung ương đảng và Hoàng Bích Sơn, Thứ trưởng ngoại giao. Nguyễn Văn Linh không cho Nguyễn Cơ Thạch đi, vì Nguyễn Cơ Thạch không đồng quan điểm, Trung Quốc không thích Nguyễn Cơ Thạch.

Vấn đề Campuchia, Trung Cộng vẫn giữ thái độ như ngày 24-8-1990, đòi cấu trúc thành phần chính phủ hòa hợp dân tộc Campuchia theo công thức: 6+2+2+2+1 (6 người phe chính phủ Hun sen, 2 người phe Khmer đỏ, 2 người phe Hoàng gia, 2 người phe đảng dân chủ, và Sihanouk). Điều này hoàn toàn trái với công thức: 6 2 +2 +2 mà Hun Sen và Sihanouk đã thỏa thuận tại Tokyo.

Ông Trần Quang Cơ viết: “Hội nghị Thành Đô có 8 điểm, hai điểm về quốc tế, 5 điểm về Campuchia, chỉ có một điểm về Việt Nam. Nguyễn Văn Linh nêu ‘Giải pháp Đỏ’, Trung Quốc hoan nghênh nhưng không mặn mà !”.

Cái gọi là “Giải pháp Đỏ” của Nguyễn Văn Linh là Kéo Trung Quốc lại, thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vũng chắc bảo vệ phe Xã hội chủ nghĩa!”. Nguyễn Văn Linh mê muội phe chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách bảo vệ phe xã hội chủ nghĩa, quên quyền lợi và danh dự của dân tộc mình để đến nỗi Việt Nam chúng ta ngày nay đang đi theo vết xe đổ của việc mất nước.

Khi Trung Quốc đưa công thức 6+2+2+2+2+1 ra, Phạm Văn Đồng nhắc Nguyễn Văn Linh thận trọng. Phía Trung Cộng liền mời Phạm Văn Đồng ra chỗ khác để Nguyễn Văn Linh ký. Phạm Văn Đồng đã thấy nguy, nhắc Nguyễn Văn Linh sửa sai, nhưng Nguyễn Văn Linh nói: “Không sao đâu!”.

Cũng theo Trần Quang Cơ thì: “Từ Thành Đô về, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sang Campuchia gặp Hengsomrin và Hunsen trao đổi về Hội nghị Thành Đô, họ không chấp nhận công thức ấy và nói thẳng Việt Nam, Trung Quốc không có quyền can thiệp vào Campuchia. Xương máu của hàng ngàn cán bộ chiến sĩ quân đội ta đổ trên chiến trường Campuchia đã bị Nguyễn Văn Linh bán rẻ cho Trung Quốc!”

Trung Cộng nói giữ bí mật Hội nghị Thành Đô nhưng chính họ thông báo cho thế giới biết toàn bộ nội dung cuộc “họp bí mật” đó. Tờ Bangkok Post và tờ Tạp chí kinh tế Viễn Đông, ngày 4-10-1990, đăng bài bình luận “Củ cà rốt và chiếc gậy” nói Việt Nam đã nhượng bộ nhiều hơn làm vừa lòng Trung Cộng.

Nguyễn Văn Linh đã thất bại trong sách lược “Giải pháp Đỏ”, bị Trung Cộng kéo ra khỏi các mối quan hệ với phương Tây với nhiều  hướng tốt đẹp cho sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, chỉ vì nghe Trung Quốc xúi cho bùi tai là làm thành trì bảo vệ Xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác Nguyễn Văn Linh đã bán nước

Theo ông Trần Quang Cơ: “Sở dĩ ta bị mắc lừa ở Thành Đô vì chính ta lừa ta! Ta ảo tưởng Trung Quốc giương cao ngọn cờ Xã hội chủ nghĩa, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và XHCN thế giới, chống lại hiểm họa “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Sai lầm đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm: Giải pháp Đỏ”.

Nguyễn Cơ Thạch nói: Trung Quốc đã sử dụng Hội nghị Thành Đô để phá mối quan hệ Việt Nam với các nước phương tây, chia rẽ nội bô ta, kéo lùi tiến trình đổi mới của ta!”

Theo quan điểm gọi là “giải pháp đỏ” thì Nguyễn Văn Linh khẳng định: “Âm mưu đế quốc Mỹ chống phá xã hội chủ nghĩa ở châu Á, cả Cu Ba. Nó đã phá Trung Quốc trong vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta!”. Và theo quan điểm của Nguyễn Văn Linh thì: “Dù Trung Quốc bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước Xã hội chủ nghĩa!”.

Từ Hội nghị Thành Đô trở về hình như Nguyễn Văn Linh là một con người khác. Ngày 28-9-1990, tuyên bố chấm dứt “Những việc cần làm ngay”. Nguyễn Văn Linh đã chỉ đạo Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Đỗ Mười đánh dập vùi Trần Xuân Bách, một người được coi là có trí tuệ và có tư tưởng tiến bộ lúc đó. [3]

Để thấy rõ hơn vai trò của Nguyễn Văn Linh và đồng bọn dưới cái tên “Giải pháp đỏ” mà sau này chúng ta nhận ra đó là một trò mèo bán nước không hơn không kém.

Trong một bài viết ca ngợi Nguyễn Văn Linh trên báo đảng. Các quan chức cộng sản thi nhau bốc thơm Nguyễn Văn Linh: “Đại tướng Lê Văn Dũng, đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước trình bày tham luận nhấn mạnh: Đồng chí Nguyễn Văn Linh là một trong những người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Linh với đảng và dân tộc là rất to lớn. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã trải qua nhiều cương vị khác nhau ở địa phương và cơ quan Trung ương, dù ở đâu và làm việc gì đồng chí cũng đem hết sức lực, trí tuệ để cống hiến cho đảng và nhân dân; đặt lợi ích của Cách mạng lên trên lợi ích cá nhân; luôn trau dồi kiến thức và lắng nghe ý kiến đồng bào, đồng chí; quan tâm tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ và góp phần xây dựng các quan điểm, đường lối của Đảng.

GS. TS Lê Hữu Nghĩa phát biểu đề dẫn hội thảo khẳng định: Đồng chí Nguyễn Văn Linh là “người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đảng viên cộng sản rất mực kiên cường, trung thành, tận tụy, suốt đời chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, một người lãnh đạo uy tín lớn của đảng, nhân dân và quân đội ta, người bạn tin cậy của bạn bè quốc tế”. [4]

Nhưng có một sự thật không thể khỏa lấp đó là: Ai được đảng ca ngợi là “học trò xuất sắc” của Hồ Chí Minh và “Kiên định theo đường lối đảng” thì dứt khoát đó là những kẻ bán nước. Và đó chính là sự thật sẽ được chứng minh dưới đây

II. Tội đồ bán nước:

Lịch sử đã cho thấy Nguyễn Văn Linh chính là một kẻ có chủ trương bán nước và làm nô lệ cho Tàu theo con đường Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Điều đó là hoàn toàn không thể chối bỏ. Ngày nay nhiều tài liệu được bạch hóa đã chỉ ra điều đó. Và những sự thật đó sẽ được gửi tới bạn đọc ngay dưới đây.

Trước đó, xin quý bạn đọc tìm đọc lại “Những sự thật cần phải biết” – Phần 23 để thấy rõ đường dây và tiến trình bán nước của cộng sản gồm: Phiêu, Linh, Khải, Kiệt, Mười, Mạnh vv… Ở đây chỉ xin tóm tắt một số sự kiện chính để thấy rõ bộ mặt bán nước của Nguyễn Văn Linh.

Thứ nhất, Hãy đọc những đoạn “hồi ký” của đại sứ Trung cộng Trương Đức Duy tại Hà Nội cùng thời điểm với vụ bán nước của Nguyễn Văn Linh và đồng bọn để thấy dã tâm của cộng sản Việt Nam (Bản tiếng Việt của dịch giả Quốc Thanh)

Trước hết là những cuộc gặp bí mật giữa Lê Đức Anh với đại sứ Tầu Trương Đức Duy và giữa TBT Nguyễn Văn Linh với Trương Đức Duy do chính sứ Tầu viết. Trong hồi ký còn có những tên Việt gian dắt mối nguy hiểm như Thiếu Tướng Vũ Xuân Vinh, cục trưởng cục đối ngoại Bộ quốc phòng (sau này được phong Trung Tướng), và Hoàng Nhật Tân con trai Hoàng Văn Hoan. Dấu mốc thời điểm này, Trương Đức Duy viết: 

“Tháng 4 năm 1989, tôi nhận nhiệm vụ làm Đại sứ tại Việt Nam, gánh trên vai một sứ mệnh quan trọng, đó là quán triệt phương châm mà Trung ương đã định ra là: Trước hết, Việt Nam phải thực sự rút sạch quân ra khỏi Campuchia, thực sự giải quyết công bằng vấn đề Campuchia theo chủ trương của cộng đồng quốc tế, thực sự thay đổi chính sách đối với Trung Quốc, thì mới có thể gạt bỏ được mọi trở ngại mà khôi phục lại mối quan hệ bình thường Trung-Việt, đây chính là then chốt….

Cần thấy rằng, điều kiện lúc này đã cơ bản đầy đủ. Nhưng, qua một thời gian tìm tòi và làm việc kể từ khi tới nhậm chức, tôi cảm thấy muốn giải quyết được hai vấn đề đại sự này vẫn còn những khó khăn không nhỏ, nguyên nhân là do tàn dư thế lực của Lê Duẩn vẫn còn gây quấy nhiễu từ nhiều phía, mối quan hệ Trung-Việt vẫn còn ở trạng thái đối lập và đối kháng, tranh chấp biên giới vẫn còn xảy ra đôi lúc; giữa hai nước ngoài quan hệ ngoại giao ra, mọi mối quan hệ khác đều đã bị đoạn tuyệt…

Song, vũ đài ngoại giao rất rộng lớn, tôi đã mở hoạt động bằng nhiều phương thức, tận dụng hết những mối quan hệ cũ, tới thăm khắp những người lãnh đạo các cấp các ngành để làm việc xoay quanh các vấn đề nói trên. Trải qua bao nỗ lực, tuy cũng có được một vài tiến triển, nhưng Nguyễn Cơ Thạch khi ấy là Ủy viên Bộ chính trị Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao lại đang nắm đại quyền ngoại giao của Việt Nam. Tôi đã nhiều lần bàn bạc trao đổi với ông ta về vấn đề Campuchia nhưng không bao giờ tới nơi, vấn đề mấu chốt vẫn chưa giải quyết được. Thời gian đã trôi qua 1 năm, làm thế nào bấy giờ? Lúc này tôi cân nhắc đến việc phải tìm cách thâm nhập chuyện trò với những người lãnh đạo cấp cao hơn bên phía Việt Nam. 

Vì thế, tôi nghĩ đến Nguyễn Văn Linh đang giữ chức Tổng bí thư Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, trong thời kì Đấu tranh chống Mỹ của Việt Nam từng bí mật tới thăm Trung Quốc với tư cách là nhà lãnh đạo chủ yếu của Miền Nam Việt Nam, khi gặp mặt các nhà lãnh đạo Trung Quốc ở Bắc Kinh, tôi từng đảm nhận vai trò phiên dịch cho ông ta, ông ta chắc vẫn còn nhớ tôi, thế là tôi bày tỏ ý muốn được tới thăm ông thông qua bạn bè.

Quả nhiên không lâu sau, Nguyễn Văn Linh đã tiếp tôi vào ngày 5 tháng 6 năm 1990. Khi gặp mặt, ông bắt tay tôi rất lâu và nhiệt tình, tỏ ra hết sức thân thiết. Tự đáy lòng, ông vẫn nhớ mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước hai đảng trong quá khứ, đồng thời bày tỏ hết sức trân trọng mối tình hữu nghị tốt đẹp Việt-Trung, hi vọng mối quan hệ này sẽ được khôi phục trong thời gian sớm nhất…”

Trương Đức Duy viết tiếp: “Nguyễn Văn Linh nói, ông cũng có nguyện vọng giống như lãnh đạo Trung Quốc, đồng thời bày tỏ nguyện vọng được đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ, để đích thân trao đổi trực tiếp với lãnh đạo cấp cao Trung Quốc về những vấn đề cùng quan tâm. Ở lần gặp mặt này, vì có nhiều người đi theo cùng có mặt, nên Nguyễn Văn Linh chưa bàn sâu đến vấn đề Campuchia và quan hệ giữa hai nước. Nhưng sau đó, mọi việc đã có bước tiến triển mới….

Tối ngày 13 tháng 8, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cho xe tới đón tôi đến nhà ông nói chuyện một tiếng đồng hồ, hỏi thăm kỹ lưỡng về tình hình sinh hoạt và sức khỏe của bố tôi, hết sức thân thiết. Tổng bí thư còn nói, ông muốn được gặp Đại sứ Trương lần nữa, nhưng Bộ ngoại giao nói chưa cần và đã ngăn lại. Vì thế, ông ấy nhờ tôi ghi lại một lời nhắn. Khi Tổng bí thư nói, tôi đã ghi lại hết sức tường tận. Cuối cùng còn đọc lại một lượt và đã được sự xác nhận của ông ấy”. 

Sau đó, Hoàng Nhật Tân trịnh trọng chuyển cho tôi lời nhắn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, nội dung chủ yếu như sau: 

“Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Khải Sơn đã chuyển đến tôi lời thăm hỏi của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lòng mong mỏi sớm được thấy sự bình thường hóa mối quan hệ Trung-Việt của đồng chí Đặng Tiểu Bình, tôi nghe thấy rất phấn khởi. Tôi cũng tha thiết mong mỏi mối quan hệ tốt đẹp Việt-Trung có thể được khôi phục trong nhiệm kì Trung ương khóa 6 đảng cộng sản Việt Nam do tôi chủ trì, để mở đầu một giai đoạn mới cho quan hệ hai nước khi tiến hành Đại hội 7 của đảng cộng sản Việt Nam…

Tôi muốn nói một cách thẳng thắn rằng, sở dĩ trở ngại về vấn đề Campuchia cứ bị kéo dài chưa được giải quyết là vì có những người trong đảng luôn làm sai lệch sự việc, chưa quán triệt được tinh thần chủ yếu của Trung ương. Tôi hi vọng phía Trung Quốc cho mời tôi và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười cùng Cố vấn Phạm Văn Đồng tới thăm Trung Quốc theo con đường nội bộ, để trao đổi trực tiếp và sâu hơn với lãnh đạo Trung Quốc về việc giải quyết vấn đề Campuchia…, tin rằng những vấn đề này nhất định sẽ được giải quyết thật tốt, từ đó mà thực hiện được bình thường hóa quan hệ hai nước Việt-Trung.

Tôi sẽ đi theo con đường của Hồ Chủ tịch, vun đắp tình hữu nghị. Sau khi đã chăm chú nghe lại lời nhắn từ Nguyễn Văn Linh, tôi nói với Hoàng Nhật Tân: ”Tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những lợi ích cách mạng chung giữa hai nước Việt-Trung, sẽ đi tiếp một cách kiên định không lay chuyển. Nếu có cơ hội, nhờ anh chuyển lời lại cho đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh rằng tôi hiểu được ý tứ và nỗi lòng của ông ấy, tôi sẽ báo cáo ngay với Trung ương chúng tôi. Tiễn chân Hoàng Nhật Tân xong, tôi quay về phòng làm việc suy nghĩ mãi về một vấn đề. Ngày 5 tháng 6, tôi từng báo cáo về trong nước là khi Nguyễn Văn Linh gặp tôi có đề xuất yêu cầu được đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ.”

Thứ hai, Để vấn đề được minh bạch sáng tỏ, hãy tiếp tục đọc cuốn “Hồi ký Trần Quang Cơ” (ở đây) của ông Trần Quang Cơ, nhân chứng lịch sử giữ vai trò quan trọng trong Bộ Ngoại Giao của cộng sản Hà Nội vào thời điểm đó. Về vai trò làm đầu sai trong việc đưa nước ta vào tròng ách nô lệ giặc phương Bắc của Nguyễn Văn Linh, Ông Trần Quang Cơ viết:

“Ngày 5. 6. 90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương đảng ói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc Kinh. Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói: “Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”. Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội” vì “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. . . chúng âm mưu diễn biến hoà bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN, nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội. . . Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin.”

Ngoài ra Trần Quang Cơ còn cho biết rất rõ về “giải pháp đỏ” mà Nguyễn Văn Linh và đồng bọn đảng CSVN muốn làm nô lệ cho Trung cộng như sau (Lê Đức Anh là người dẫn mối cho Linh tiếp xúc với Duy):

Sáng 6. 6. 90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19. 6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11-13. 6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy.

Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6. 6, anh Lê Đức Anh đã nói khá cụ thể về “giải pháp Đỏ”: Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường… Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi…”

Thứ ba, cũng vẫn là hồi ký của sứ Tầu Trương Đức Duy tại Việt Nam. Nhưng lần này chính Lê Đức Anh cũng đã xác định tư tưởng bán nước của mình và Linh với Trương Đức Duy. Hãy chú ý lắng nghe đoạn sau: ” Sau đó tôi nhắc đến lời nhắn của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã được ghi lại gửi cho tôi, tôi cảm thấy hết sức quan trọng, cho nên mong được gặp riêng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh để trực tiếp lắng nghe ý kiến của Tổng bí thư, đồng thời tôi cũng có một vài điều nữa cần nói với Tổng bí thư.

Tôi nói, hiện giờ mà thông qua con đường khác sẽ có khó khăn, cho nên xin phiền đồng chí Đại tướng giúp cho. Lê Đức Anh nói rất thoải mái:

“Đây quả thực là việc hết sức quan trọng, hôm nay tôi sẽ báo cáo lại yêu cầu của Đại sứ với Tổng bí thư”.

Tiếp đó, Lê Đức Anh cũng nói về hai quan điểm, đại ý là:

Thứ nhất, nhấn mạnh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Trung Quốc, luôn chủ trương thân thiện với Trung Quốc, từ sau khi nhậm chức Tổng bí thư vào năm 1986 đã làm rất nhiều việc để khôi phục lại mối quan hệ giữa hai nước hai Đảng. Trước tình hình thế giới phức tạp như hiện nay, việc thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước lại càng trở thành niềm mong muốn ấp ủ của ông ấy”

Về diễn tiến cuộc gặp đại sứ Trương Đức Duy với Nguyễn Văn Linh và đồng bọn thì Trương Đức Duy đã thuật lại như sau: “Chiều hôm đó, Cục trưởng Vũ Xuân Vinh hẹn gặp gấp Tùy viên quân sự Triệu, nói rằng: Theo chỉ thị của Đại tướng Lê Đức Anh, xin chuyển lời tới Đại sứ Trương. Vào 19 giờ 30 phút ngày 22, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ gặp riêng Đại sứ Trương tại phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Cả hai bên đều không đem theo phiên dịch và thư ký. Đề nghị Đại sứ Trương đổi sang một chiếc xe nhỏ, không cắm quốc kỳ, đi vào từ cửa bên Bộ quốc phòng…

Mọi sự được tiến hành thuận lợi hơn dự kiến. Tối đó, tôi theo hẹn đúng giờ đến Bộ quốc phòng. Trong cuộc gặp hơn 40 phút, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói chuyện với tôi hết sức thân mật và thẳng thắn, ông đã chứng thực cho lời nhắn mà Hoàng Nhật Tân đã ghi lại.

Nguyễn Văn Linh còn nói đến cả chuyện khi lên làm Tổng bí thư vào năm 1986, ông liền quyết tâm khắc phục mọi trở lực, từng bước chỉnh sửa những sai lầm trong quá khứ, khôi phục lại tình thân thiện với Trung Quốc như sửa đổi lời đầu trong Hiến pháp, đồng thời sửa đổi những chính sách sai lầm đối với người Hoa và Hoa kiều. Sau đó, lại làm công tác từ các phương diện, để rồi cuối cùng đã ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia.

Nguyễn Văn Linh còn nói một cách sâu sắc rằng:

Cả Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đều không còn nữa, khi nào cùng với các đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ, ông mong sẽ được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, được đích thân lắng nghe mọi ý kiến và kinh nghiệm từ đồng chí ấy.

Tôi nghe hết sức chăm chú từng chi tiết buổi nói chuyện của Nguyễn Văn Linh, đồng thời ghi lại những nội dung quan trọng mà ông đã nói. Cuối cùng tôi đã bày tỏ rằng vô cùng cảm động khi được nghe buổi nói chuyện hết sức thân mật của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, tôi nhất định sẽ báo cáo ngay lại với Trung ương chúng tôi về những ý kiến và yêu cầu của đồng chí Tổng bí thư”

Về chuyến đi Thành Đô của Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng họ Trương viết:“Chiều này 28 tháng 8, sứ quán chúng tôi nhận được điện trả lời từ trong nước về việc đồng ý mời các vị lãnh đạo Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9.

Làm sao trực tiếp nói với riêng Nguyễn Văn Linh về quyết định quan trọng này của Trung ương bây giờ? Lúc này thời gian đã rất gấp, chỉ còn cách ngày lên đường đi Trung Quốc của đoàn Nguyễn Văn Linh có 5 ngày.

Thế là tôi liền quyết định vẫn thông qua kênh Bộ quốc phòng Việt Nam, như thế là nhanh chóng và ổn thỏa nhất. Không cho phép được chậm trễ một giây, tôi bảo ngay Tùy viên quân sự Triệu lập tức hẹn gặp Cục trưởng Cục đối ngoại Vũ Xuân Vinh.

Thật là không may, Vũ Xuân Vinh đi Hải Phòng mất rồi, ngày hôm sau mới về Hà Nội. Tùy viên quân sự Triệu nhanh chóng quyết định lập tức đổi sang hẹn với trung tá Vũ Tần Vụ trưởng của Cục đối ngoại. Sau đó anh ta báo lại với tôi, tôi nói anh làm rất đúng, phải hết sức tranh thủ thời gian.

Vào 9 giờ tối hôm đó, Tùy viên quân sự Triệu vừa gặp mặt trung tá Vũ Tần đã nói thẳng vào vấn đề luôn rằng Đại sứ Trương có việc hết sức gấp và quan trọng, mong được gặp ngay Đại tướng Lê Đức Anh, xin đồng chí trung tá giúp bố trí cho.

Vũ Tần bảo Đại tướng tối nay tham dự Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương khóa 9 đảng cộng sản Việt Nam, không biết lúc nào tan. Tôi sẽ đến ngay nhà ông ta xem sao. Khi Đại tướng định giờ gặp một cái là tôi sẽ gọi ngay điện thoại báo cho anh biết. Tùy viên quân sự Triệu vừa về tới sứ quán chưa được bao lâu đã nhận ngay được trả lời điện thoại của Vũ Tần: “Đúng 8 giờ sáng mai Đại tướng sẽ gặp Đại sứ Trương, địa điểm vẫn ở chỗ cũ”.

Sáng ngày 29, tôi đến phòng khách Bộ trưởng Bộ quốc phòng đúng giờ.

Khi gặp mặt, Đại tướng Lê Đức Anh nói một cách dí dỏm: “Trông bộ dạng Đại sứ Trương vui thế kia, chắc là đem tin tốt lành đến cho chúng tôi rồi”. Tôi nói: “Chiều tối qua, tôi nhận được chỉ thị quan trọng của Trung ương. Cho nên, hôm nay vừa mới sáng ra đã lại tới làm phiền anh rồi”.

Tiếp đó, tôi thông báo lại với Đại tướng Lê Đức Anh việc Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ, xin Lê Đức Anh chuyển lời mời đồng thời bố trí cho tôi được gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh một lần nữa, để trả lời trực tiếp với đồng chí ấy.

Lê Đức Anh bày tỏ: Đây quả thực là một tin tốt lành, tôi nghe mà cảm thấy rất phấn khởi. Xin đồng chí Đại sứ cứ yên tâm, tôi sẽ báo cáo ngay với Tổng bí thư. Chuyến đi thăm lần này hết sức quan trọng, chúng tôi phải có những nỗ lực lớn nhất để chuyến đi thăm được thành công

Sau khi cáo từ Lê Đức Anh về sứ quán được khoảng hơn 1 tiếng, Trung tá Vũ Tần ở Bộ quốc phòng Việt Nam đã hẹn với Tùy viên quân sự Triệu rằng: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ cùng với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương vào 4 giờ chiều nay. Đại sứ có thể chính thức đề xuất yêu cầu được gặp mặt với Ban đối ngoại Trung ương cộng sản Việt Nam.

Tôi lập tức hẹn gặp luôn với Phó Ban đối ngoại đảng cộng sản Việt Nam Trịnh Ngọc Thái, nói rằng có chuyện gấp yêu cầu được tới thăm Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười, hi vọng anh ta sẽ báo cáo ngay. Một lúc sau, Vụ Lễ tân Ban đối ngoại Trung ương đảng cộng sản Việt Nam liền thông báo cho sứ quán tôi: Theo yêu cầu của Đại sứ Trương Đức Duy, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười sẽ gặp Đại sứ Trương Đức Duy vào 4 giờ chiều tại nhà khách Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.

Vào 3 giờ 55 phút chiều, tôi ngồi trên chiếc xe có cắm quốc kỳ tới cổng tòa nhà Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, Vụ trưởng Vụ Lễ tân Ban đối ngoại Trung ương đảng cộng sản Việt Nam Phạm Quang Anh dẫn tôi vào nhà khách, lúc này Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười đã có mặt, họ đều lần lượt bắt tay và ôm tôi rất thịnh tình.

Theo đề nghị từ phía Việt Nam, lần này vẫn không bố trí phiên dịch, thư ký và người đi cùng. Trước hết tôi cảm ơn hai vị đã dành thời gian đón tiếp tôi trong muôn vàn bận rộn.

Nguyễn Văn Linh nói: Theo báo cáo từ Ban đối ngoại Trung ương, đồng chí Đại sứ có việc gấp cần trao đổi với chúng tôi, chúng tôi rất vui được gặp anh.

Tôi nói: Chiều tối qua, tôi có nhận được chỉ thị từ trong nước, yêu cầu tôi nhanh chóng chính thức chuyển ý kiến của Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời các đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi thăm Trung Quốc theo đường nội bộ từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9. Để tiện cho việc bảo mật, sẽ bố trí địa điểm ở Thành Đô.

Sau đó, tôi lấy văn bản từ trong cặp ra đọc rành rọt từng chữ tờ đính kèm đánh máy bằng tiếng Việt rõ ràng. Đồng chí Nguyễn Văn Linh còn đòi tôi đưa cho tờ đính kèm ấy, đọc xong rồi chuyển cho đồng chí Đỗ Mười xem.

Hai vị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười bàn bạc ngay tại chỗ xong, Nguyễn Văn Linh bày tỏ: Tôi và Chủ tịch Đỗ Mười rất phấn khởi, rất hoan nghênh, rất cảm ơn lời mời của Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng. Chúng tôi hết sức vui mừng khi nhận được lời mời, đồng ý với sự bố trí thời gian, địa điểm và những việc có liên quan do phía Trung Quốc đề xuất. Chúng tôi sẽ báo cáo ngay lên Bộ chính trị, nhanh chóng xác định danh sách đoàn đại biểu và bắt tay vào công tác chuẩn bị, thậm chí ngay cả đồng chí Phạm Văn Đồng, nếu như tình trạng sức khỏe cho phép, cũng nhất định sẽ tiếp nhận chuyến đi thăm theo lời mời này

Cuộc gặp mặt được diễn ra hơn nửa giờ trong bầu không khí thân mật, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh còn đề xuất một lần nữa nguyện vọng được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, được đích thân lắng nghe những ý kiến và kinh nghiệm quý báu từ đồng chí ấy.

Ngày 9-1990 tại Thành Đô, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng tiến hành hội đàm với Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, bàn về vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước, sau hội đàm đã cùng chụp ảnh lưu niệm, nhưng thực chất là bán nước.

 

Hình ảnh tại hội nghị bán nước 1990

 

Thứ tư, Lý Bằng – cựu thủ tướng Trung Cộng có tập Nhật ký đối ngoại (Lý Bằng ngoại sự nhật ký) có ghi chép diễn tiến của Hội nghị bán nước của Nguyễn Văn Linh và đồng bọn. Xin trích một đoạn như sau: “Ngày 6/6/1990- Thứ tư. Trời quang tạnh. 

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hội kiến với Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn hy vọng thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai Đảng.

Ngày 26/8- Chủ nhật. Trời mưa u ám.

Về chuyến đi của TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh và những người cùng đi đến Trung Quốc viếng thăm nội bộ, tôi đã hội báo với đồng chí Đặng Tiểu Bình. Xét vì Á vận hội sắp khai mạc ở Bắc Kinh, mà lần gặp này liên quan đến việc bình thường hóa quan hệ hai nước Việt Trung là sự việc trọng đại, để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm quyết định bố trí ở Thành Đô.

Ngày 30/8-Thứ năm. Trời quang tạnh.

Về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm nội bộ với TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch HĐBT VN Đỗ Mười, đã gửi lời mời đến phía Việt Nam. Hiện còn phải chờ xem phúc đáp của phía Việt Nam thế nào?

Ngày 2/9 -Chủ nhật. Trời quang tạnh.

Buổi chiều, 3 giờ 30 tôi lên chuyên cơ khởi hành từ sân bay ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh. Khoảng gần 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Tôi đi ô tô mất khoảng 20 phút đến Khách sạn Kim Ngưu. Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại chờ đón tôi tại đó. Đồng chí Giang Trạch Dân đi một chuyên cơ khác, đến Thành Đô muộn hơn tôi 30 phút. Buổi tối từ 8 g30 đến 11g tôi và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi ý kiến về phương châm hội đàm với phía Việt Nam ngày mai.

Ngày 3/9 Thứ hai. Thành Đô trời tạnh sáng.

Buổi sáng tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng đồng chí ấy tiếp tục nghiên cứu phương châm sẽ hội đàm với phía Việt Nam vào buổi chiều.

Khoảng gần 2g chiều, TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn BCHTƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng đến khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đón tiếp họ ở sảnh tầng 1. Nguyễn Văn Linh mặc Âu phục màu cà phê, phần nào có phong độ như một học giả. Đỗ Mười thân thể tráng kiện, đầu tóc bạc trắng, vận âu phục xanh lam. Cả hai người đều vào khoảng 73-74 tuổi. Còn Phạm Văn Đồng cả hai mắt bị lòng trắng che, thị lực rất kém, mặc áo kiểu đại cán xanh lam, giống như một lão cán bộ Trung Quốc.

Buổi chiều, hội đàm bắt đầu. Nguyễn Văn Linh nói trước một thôi dài. Tuy nói nguyện vọng muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia, đồng thời nói việc thành lập Hội đồng Tối cao Campuchia là việc cấp thiết trước mắt, không nên loại bỏ bất cứ một bên nào, nhưng lại tỏ ý không muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra, vấn đề Campuchia Nguyễn Văn Linh chỉ muốn tỏ một thái độ về nguyên tắc mà đặt trọng điểm vào việc bình thường hóa quan hệ Trung Việt.

Hội đàm diễn tiến đến tận 8g tối. 8g30 mới chiêu đãi cơm tối. Trên bàn ăn tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lại từng người làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh.

Ngày 4/9. Thứ ba. Trời âm u.

Buổi sáng chúng tôi tiếp tục họp với các đồng chí lãnh đạo Việt Nam. Đến lúc đó những vấn đề hội nghị đề xuất có thể nói là đã đạt được nhận thức chung một cách đầy đủ, quyết định khởi thảo một bản Kỷ yếu của Hội nghị.

Buổi chiều, 2g30 tại sảnh tầng 1 khách sạn Kim Ngưu hai bên Trung Việt cử hành nghi thức ký kết chính thức. Hai bên riêng biệt do Tổng Bí thư và Thủ tướng ký. Đây là bước ngoặt mang tính lịch sử của quan hệ hai nước Trung Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đương diện tặng các đồng chí Việt Nam một câu thơ:

Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu”.

Qua đây chúng ta có thể thấy rõ âm mưu bán nước hơn nữa của Nguyễn Văn Linh và bè đảng cộng sản.

 

Bè lũ bán nước là đây :  TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười, và Cố vấn BCHTƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng, Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung ương đảng và Hoàng Bích Sơn, Thứ trưởng ngoại giao.

Thứ năm, Trong cuốn sách “Mao chủ tịch của tôi” của tác giả Hà Cẩn – Viện văn học Trung Quốc đã được giới thiệu trong “Những sự thật không thể chối bỏ” có đoạn viết: ” Việt Nam cuối cùng cũng đã xích lại gần hơn nữa với Trung Quốc. Những gì thuộc về quan hệ tốt đẹp của hai đảng từ thời Mao Chủ tịch và Hồ Chủ tịch đã được tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh cụ thể hơn sau chiến tranh biên giới năm 1979. Không có gì có lợi hơn cho cả Việt Nam và Trung Quốc khi đứng cạnh nhau vv…” (trích “Mao chủ tịch của tôi” – Trang 198)

Qua đoạn trích chúng ta thấy gì? Đó là Nguyễn Văn Linh đã thực hiện đúng mong muốn của Hồ và Mao: Biến Việt Nam thành một tỉnh của Trung cộng mà chúng ta thấy đang ngày một hiện ra rõ hơn.

 

Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy (5-6-1990)

 

III. Kết Luận:

Nguyễn Văn Linh và đồng đảng là một lũ bán nước tồi tệ. Những sử liệu của Trung cộng và cộng sản Việt Nam đã chứng minh điều đó. Cộng sản tất cả đều giống nhau là ngụy biện và bán nước. Những ai thật sự lương thiện đã không theo cộng sản hoặc biết cộng sản tồi tệ thì đã ly khai khỏi đảng. Cái cách mà Nguyễn Văn Linh mỵ dân bằng “cởi trói” chính là cách ngụy biện cho đường lối độc tài của cộng sản: Xây nhà tù rồi khoét một lỗ nhỏ để đi từ nhà tù nọ sang nhà tù kia rồi gọi đó là “đột phá” và “đổi mới”. Chúng ta ngày nay không còn bị lừa dối bởi những điều đó. Vậy thì không có gì quý hơn là mỗi chúng ta hãy đem những sự thật này đến với nhân dân Việt Nam. Vì đó là con đường ngắn nhất để cứu nước trước thảm hỏa đang đến rất gần. Đừng mong đấu tranh cho dân chủ khi mà chưa có độc lập. Những mơ tưởng về đấu tranh dân chủ mà không lật đổ cộng sản đều là những mơ tưởng hão huyền mà thôi !

 

18/10/2013

Đặng Chí Hùng 

danlambaovn.blogspot.com

 Bối cảnh dẫn tới hội nghị Thành Đô. 1990…Tại sao BCT đảng csvn đến Thành Đô.  Ng V Linh, Lê Đức Anh, Đỗ Mười là chủ chốt, và vì quyền lợi cá nhân của tất cả ủy viên BCT, nên toàn thể đã biểu quyết cuộc gặp mặt ở Thành Đô

Đặng Chí Hùng, 30 tuổi, một thanh niên Miền Bắc  ở Hà Nội, xuất thân trong một gia đình CS nòi, đã viết loạt bài này. An ninh và công an VN đã truy lùng Đặng Chí Hùng và vây bắt anh ta như thế nào…

Về 3 Người Việt Vừa Bị Bắt Ở Thái Lan – Trần Hoàng Blog (20-12-2013)

Nhà báo tự do Đặng Chí Hùng được Cao Ủy Tị Nạn LHQ  (11-1-2014)

Nhà báo tự do Đặng Chí Hùng sẽ tị nạn chính trị tại Canada  (29-1-2014)

Đặng Chí Hùng đã tới Canada ngày 10-9-2014  https://www.youtube.com/watch?v=CgQA5Omv5Cg

http://www.youtube.com/watch?v=um88_IUqQJA      ( Phỏng vấn Đặng Chí Hùng)

www.youtube.com/embed/ca0lRHCZM3U                  (ĐCH nói về Hiểm Họa Mất Nước)

Chú thích:

————–
CÁC BÀI LIÊN QUAN TỚI BÀI NẦY
Không thể bỏ qua các bài này:
 – 6 tướng và 14 đại tá thuộc Lực Lượng Vũ Trang, Quân Đội NDVN kiến nghị đòi đảng CSVN và nhà nước công khai hóa Hội Nghị Thành Đô 1990 cho dân chúng biết (2-9-2014)
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên và Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell.
————-
TIẾT LỘ TỪ WIKILEAKS: HỘI NGHỊ SÁP NHẬP VIỆT NAM VÀO CHINA
Vu Pham, FB 3-6-2014

VIỆT NAM: TỈNH HAY KHU TỰ TRỊ ?


(Ninh Cơ ghi lại. Trích tài liệu chép lại từ băng ghi âm cuộc họp mật giữa đại diện Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam để lưu trữ, được bảo quản theo chế độ tuyệt mật.)



Cái gì chờ đợi cũng đã đến, khi tổ chức Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời liên quan đến Việt nam. Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng BT Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt nam và ông Giang Trạch Dân Tổng BT và ông Lý Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành đô.

Thưa các đồng chí.
Trong mấy ngày qua, ta đã cùng nhau thảo luận nhiều vấn đề, đạt được đồng thuận về căn bản, tuy không khỏi có sự tranh biện về tiểu tiết. Khép lại, ta có thể hài lòng khẳng định hội nghị đã thắng lợi và thắng lợi lớn. Xin các đồng chí hoan hỉ cạn chén. Trong lời phát biểu kết thúc hội nghị, Lương Tư Lệnh nhấn mạnh: “Những gì được đưa ra bàn ở hội nghị chung quy chỉ là những điều đã được đề cập nhiều lần từ nhiều năm trong những cuộc gặp gỡ các cấp tham mưu và cả cao cấp.” Với tư cách Chính Ủy được đề cử ra chủ trì hội nghị tôi xin tóm tắt vài điều cần thiết.Trước hết, hội nghị nhất trí cao về quan điểm không có và không hề có chuyện Trung Quốc thôn tính Việt Nam . Trung Quốc không có nhu cầu hôn tính nước nào. Các nước lân bang đều nghèo. Họ cần đến Trung Quốc hơn là Trung Quốc cần đến họ. Những cái họ có đều ở dạng tiềm năng dưới đất hoặc ngoài biển. Không có Trung Quốc giúp đỡ thì chẳng khai thác được. Trong giai đoạn phải dồn toàn lực cho phát triển kinh tế, mà Ðặng Tiểu Bình lãnh tụ đã vạch ra, mọi sự đèo bồng đều vô nghĩa. Chúng kiềm hãm bước tiến vĩ đại của Trung Quốc vĩ đại. Thế mà ở Việt Nam lại có những luồng dư luận như thế đấy. Nào là Trung Quốc bá quyền, nào là Trung Quốc bành trướng. Thối lắm, thưa các đồng chí, không ngửi được.

Bọn dân chủ ở Việt Nam đã hô hoán rầm rỉ rằng cuộc vạch lại biên cương giữa Trung Quốc và Việt Nam là tranh chấp biên giới. Trong khi đàm phán, tất nhiên có những điều hai bên phải nhân nhượng nhau. Có chỗ lồi ra, có chỗ lỏm vào, ở bên này hay bên kia. Nhưng, đó là kết quả của những thương thảo sòng phẳng, thuận mua vừa bán. Các đồng chí Việt Nam thấy chúng tôi nói thế, lại chỉ thanh minh mới chán. Như, Lê Thứ Trưởng (tức là ông Lê Công Phụng) trả lời phỏng vấn: “Thác Bản Giốc ta cứ tưởng là của ta, bạn cũng không bảo là của bạn. Ðo ra mới biết là của ta chỉ có một phần ba. Vì tình hữu nghị với ta, bạn cho ta hưởng một nửa.” Nói thế là tốt. Nhưng vẫn cứ là thanh minh.Việc gì mà phải là thanh minh cơ chứ? Với bọn phản động chuyên gây rối à? Cứ thẳng tay trấn áp, bịt cái miệng chó của chúng lại. Cứ lừng chừng, thiếu kiên quyết. Cứ hữu khuynh nhân nhượng. Nhân nhượng là chết đấy. Phải quét cho bằng sạch, không thương xót bọn dân chủ. Không cho chúng được đàng chân lên đàng đầu. Vùi chúng xuống đất đen, không cho chúng ngóc đầu dậy. Nhưng, cái đó sẽ không còn là vấn đề trong tương lai. Việc tiêu diệt bọn dân chủ dòi bọ sẽ không còn là việc của riêng các đồng chí Việt Nam. Nó sẽ là nhiệm vụ chung của tất cả chúng ta.

Thưa các đồng chí.Hội nghị đã thành công là nhờ nó gạt được ra những chuyện lặt vặt vô bổ, đang là đề tài thời sự, để tập trung vào đại sự: bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai. Tương lai có thể chưa tới ngay, nhưng lại có thể rất gần. Vì thế, ta phải có viễn kiến và phải có sự chuẩn bị.

Hợp kết Trung Quốc Việt Nam có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển của tổ quốc. Với tư cách tham mưu cho cấp cao hai bên, trong hội nghị này chúng ta bàn thẳng vào những phương án phát thảo những bước tiến hành cụ thể, những công việc cụ thể trong công tác chuẩn bị.Nào, xin cạn chén một lần nữa, mừng thắng lợi của hội nghị lịch sử này.Trong tình thế hiện nay, Việt Nam không còn lựa chọn nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại.

Ði với Mỹ chăng? Thì các đồng chí chạy đi đâu? Trở về với tổ quốc thì các đồng chí mới tiếp tục tồn tại như những ông chủ duy nhất trước hiểm họa của bọn dòi bọ đang tích cực phản công nhằm tống cổ các đồng chí ra khỏi chỗ ngồi của mình. Hãy tưởng tượng một ngày nào đó, các đồng chí không được ngồi ở bàn giấy trong công thự, mà phải đi lang thang ngoài đường kiếm việc làm. Thật khủng khiếp. Vì thế, chúng ta phải chiến đấu hết mình cho sự tồn tại của chúng ta, cho con cháu chúng ta, tương lai của chúng ta, của con cháu chúng ta. Quyết không để lọt vào tay kẻ khác.

Lũ dân chủ dòi bọ ấy có cả ở Trung Quốc. Tôi thừa nhận điều đó. Nhưng chúng tôi thẳng thắn trấn áp chúng thắng lợi. Nhưng ở Việt Nam tình trạng có khác. Chúng hung hăng hơn, lì lợm hơn, là do các đồng chí thiếu kiên quyết.

Nếu ở Trung Quốc có một Thiên An Môn, thì tại sao Việt Nam không có một cái tương tự? Tôi xin bảo đảm với các đồng chí rằng, Trung quốc sẽ tận tình chi viện cho các đồng chí, một khi có sự biến đe dọa quyền lợi của đồng chí, để bảo vệ các đồng chí. Trung Quốc không thiếu xe tăng dĩ chí trong vài Thiên An Môn.. Các đồng chí cứ hỏi Nông đồng chí (tức ông Nông Ðức Mạnh) xem Hồ đồng chí (tức là Hồ Cẩm Ðào) đã hứa hẹn gì trong cuộc gặp gỡ cấp cao vừa rồi. Nhưng đó là trong tình huống hiện nay. Trong tương lai thì hai nước đã là một, thì sẽ không phải như vậy.

Việc Việt Nam trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa. Trung Quốc và Việt Nam là một. Ðó là chân lý đời đời. Ðó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là ông Hồ Chí Minh) trong lễ tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: “Trung Quốc, Việt Nam như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh.” Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể. Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Ðức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gỡ các đại biểu trong Quốc Vụ Viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.Trong thời đại hiện nay thì thế giới được tái phân chia sau đệ nhị thế chiến, thì Hoa Kỳ đã mất sự độc tôn trong sự trỗi dậy bất ngờ của tổ quốc chúng ta, thì sự sát nhập trở lại của Việt Nam và toàn bán đảo Ðông Dương tiếp theo là điều tất yếu. Thế nhưng chúng ta đều đã thấy, đã biết những biểu hiện lừng chừng, giao động lúc này lúc khác, trong ban lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam muốn người dựa lưng vào Trung Quốc, người dựa hơn con hổ giấy Hoa Kỳ. Bây giờ đã khác.

Sự lựa chọn chỉ còn có một. Và ở đây, các đồng chí Việt Nam tỏ ra có lựa chọn đúng.

Ngày nay, Trung Quốc vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có Việt Nam nhập vào, Trung Quốc đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại. Thế giới hôm nay chỉ còn lại hai siêu cường. Ðó là Trung Quốc và Hoa Kỳ. Con hổ giấy Hoa Kỳ.

Những việc mà bây giờ chúng ta phải làm. Tôi xin nhấn mạnh lại lần nữa. Không phải bây giờ mới làm, nhưng làm chưa đúng, làm chưa đủ, thì nay cần phải đẩy mạnh hơn nữa.Phải triển khai rộng hơn nữa là đè bẹp và tiêu diệt luận điệu tinh thần dân tộc vẫn còn tồn tại dai dẳng trong bọn kiên trì lập trường độc lập dân tộc. Ðặc biệt trong đám trí thức và vài phần tử công thần chủ nghĩa trong tướng lĩnh. Cần phải tiêu diệt cả về tinh thần, cả về vật chất.

Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công này là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Ðức Anh) người rất biết nhìn xa trông rộng. Tuy nhiên, lẫn vào đấy cũng vẫn có vài phần tử lừng chừng, giao động, chủ yếu do kém hiểu biết. Các đồng chí cần đả thông, bồi dưỡng thêm cho họ về lập trường, quan điểm và trường đảng các cấp. Mấy anh già sắp chết hay nói ngang thì phải đe nẹt cho chúng biết rằng, một khi đã bị coi là chống đảng thì chúng sẽ bị tước hết mọi tiêu chuẩn cao đang được hưởng, tất chúng sẽ im mồm.

Ðám trí thức lèo tèo mới là đáng ngại. Tuy chẳng có trong tay cái gì, nhưng chúng có khả năng kích động tinh thần nhân dân để cản trở sự hợp nhất. Nhưng không lo. Mao chủ tịch đã dạy: “Trí thức khởi xướng được, nhưng không làm được. Chúng chỉ lép bép lỗ miệng. Thấy súng lên đạn là chúng rùng rùng bỏ chạy.” Ðáng ngại là ở chỗ ấy, chỗ khởi xướng. Nhưng không đáng sợ cũng ở chỗ ấy.

Ở chỗ bản tính trí thức, hãy lên đạn, hãy hô bắn thật to, đâu sẽ vào đấy. Lực lượng chủ yếu của chúng ta trong việc trấn áp bọn dân tộc chủ nghĩa là hai cánh quân. Về vật chất là công an, về tinh thần là truyền thông.

Công an sẽ được cung cấp mọi trang bị hiện đại nhất để đè bẹp mọi mưu toan đối kháng. Nhưng phải chú ý đến điểm này: Không được lạm dụng các phương tiện hiện đại. Chiếu cố những biện pháp truyền thống ít gây ồn ào, tránh những phản ứng quốc tế bất lợi. Truyền thông phải xừ dụng mọi phương tiện sẵn có. Tăng cường viết và nói hằng ngày hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập. Họ sẽ được hưởng mọi phúc lợi của người dân Trung Quốc hơn hẳn phúc lợi đang có. Họ sẽ không còn chuyện lủng củng vướng mắc về biên giới. Ngư dân được tha hồ đánh cá trên biển Ðông này cũng là của họ mà không còn phải lo lắng: vì xâm phạm lãnh hải, bị hải quân Trung Quốc trừng phạt.

Người dân khi xuất ngoại sẽ được cầm hộ chiếu của một nước lớn mà thế giới phải kiêng nể.

Tuy nhiên, tôi đặc biệt lưu ý các đồng chí là phải tiến hành kín đáo, để mọi việc chuẩn bị diễn ra như bình thường, không nhận thấy được. Trong khi chưa được hợp nhất, trung ương chính phủ, cũng như các tỉnh chính phủ, tuyệt đối không lộ ý đồ. Thỉnh thoảng cũng phải cho phát ngôn nhân trung ương chính phủ nói dăm ba câu phản đối về chủ quyền Tây Sa và Nam Sa. Và cho phép các báo đăng vài bài chiếu lệ về biên giới và hải đảo với mọi sự cố xảy ra trên biển như vừa rồi. Cứ tiếp tục ám chỉ một nước ngoài nào đó, hoặc một tàu lạ nào đó, không rõ quốc tịch là được.

Ðừng quên xem thường các nhà báo. Họ là công bộc trung thành của ta. Thiếu họ không được. Hiện nay đang nổi lên sự phản đối Trung Quốc khai thác Bauxite ở miền Trung, ồn ào lắm, có vẻ hung hăng lắm. Nhưng là bề ngoài thôi. Chứ bề ở trong, bọn phản đối cũng thừa biết mọi sự đã an bài. Tiền đã trao thì cháo phải được múc. Bộ Chính Trị quyết không bỏ kế hoạch này. Nhất là đồng chí Nông Ðức Mạnh. Là chuyện sinh tử của đồng chí Nông Ðức Mạnh nên đồng chí ấy rất cương quyết. Trong chuyện Bauxite, tôi thấy bên cạnh cái xấu lại có cái tốt đấy.

Các đồng chí ạ! Phải công bằng mà lập luận, một khi Việt Nam đã nhập vào Trung Quốc thì vùng Tây nguyên của Việt Nam là của chung nước ta. Chưa chừng, trên sẽ thay đổi kế hoạch. Ta không khai thác ở đấy nữa, mà chuyển sang khai thác, thực hiện ở Châu Phi. Bauxite của ta, ta để đấy dùng sau. Cũng như ta đâu có vội khai thác cả tỷ tấn Bauxite ở Quảng Tây. Nói để các đồng chí phấn khởi. Về thực chất, qua con đường ngoại thương, đầu tư, ta nắm Châu Phi trong nhiều năm nay rồi. Ta đã mua hết các chính quyền ở đấy. Cái đó gọi là quyền lực mềm. Trung Quốc đến sau phương Tây và Hoa Kỳ, vậy mà chỉ trong vòng một thập niên, ta đã quét sạch chúng khỏi đấy. Ta còn chuyển dân mình sang Châu Phi, làm thành những vùng đất Trung Quốc trên lục địa đen kia nữa. Người Trung Quốc bây giờ có quyền nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất đai của tổ quốc.”

Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương cho đến địa phương để họ thấy rằng sau hợp nhất, mọi vị trí quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chính sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc. Việc này rất quan trọng.

Xin các đồng chí chớ coi thường. Lãnh đạo từ trung ương cho đến địa phương có thông thì dân mới thông. Nhân dân đã được giáo dục chu đáo trong nhiều năm, tinh thần tuyệt đối phục tùng lãnh đạo. Nhưng nếu họ thấy cấp trên của họ giao động, tư tưởng bất thông thì chính họ cũng sẽ giao động theo, trở thành mồi ngon cho những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.

Thưa các đồng chí. Còn lại việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt Nam trong tổ quốc thống nhất. Tỉnh hay khu tự trị? Chuyện này xin các đồng chí về nghĩ thêm, bàn thêm. Tỉnh thì cũng như Quảng Ðông, Quảng Tây. Về diện tích hơn kém không nhiều. Khu tự trị kiểu như khu tự trị Choang trong tỉnh Quảng Tây thì lại quá nhỏ về vai vế. Nông đồng chí vốn rất e ngại sự chống đối trong nội bộ. Mà làm khu tự trị với ý nghĩa lớn hơn thì lại vướng chuyện Tây Tạng. Bọn chó Ðạt Lai Lạt Ma cũng đang xin tự trị đấy, mà trung ương không thuận. Còn mấy đồng chí Việt Nam nêu ý kiến, hay là tổ chức Trung Quốc thành liên bang, Việt Nam sẽ là một nước hay một bang trong liên bang ấy. Ý kiến này không mới. Nó đã từng được nêu lên. Nhưng các đồng chí thử nghĩ xem. Nếu như thế thì thống nhất làm sao được với bọn Tây Tạng, bọn Nội Mông, bọn Mãn Châu, bọn Hồi Bột.

Chính chúng nó đang muốn cái đó để xưng độc lập, hoặc tự trị trong liên bang. Trên nguyên tắc thì đúng, là cái gì cũng được. Danh chính thì ngôn thuận. Nhưng nội dung bất biến. Vùng nào cũng chỉ là một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc. Có điều những danh hiệu độc lập, tự trị là cái rễ bị lồng vào đấy cái tinh thần dân tộc, mầm mống cho sự phận liệt.

Không được. Quyết không được.

Thưa các đồng chí. Vấn đề hình thức nhưng lại có tầm quan trọng. Xin các đồng chí phát huy tự do tư…

(hết phần trích và dịch đoạn băng ghi âm)

Vu Pham, FB  (3-6-2014)
 —————————-
=============
Có rất nhiều bài  được  bạn đọc  giới thiệu tới hàng trăm diễn đàn trong và ngoài nước post ở đây
*Lê Văn Mọi – (đã từng tham gia bộ đội đánh TQ 1979-1989) 
Sau thế chiến II nhiều nước CS ra đời, không thấy một nước CS nào bị nước khác xâm lược, chỉ thấy các nước CS xâm lược nước khác, điển hình là Trung quốc xâm lược Ấn độ và muền Bắc VN CS xâm lăng miền Nam VN (đã được coi như một quốc gia, trước kia Trung quốc giúp miền Bắc chiếm miền Nam để sau này Trung quốc chiếm cả Việt Nam cho gọn, sau đó muốn chiếm cả Đông Nam Á để thực hiện mộng bá quyền).Lần này thì Việt Nam là nước CS đầu tiên bị nước khác xâm lược, mà nước đi xâm lược lại cũng là một nước CS. Điều này gợi lên cho các nước khác nghĩ gì? Chưa thấy ai phát biểu về vấn đề này, nhưng nếu ta đặt địa vị ta là người nước ngoài nhìn 2 nước CS xâm lược lẫn nhau vì quyền lợi thì ta thấy rất rõ là CS rêu rao “vô sản thế giới liên hiệp lại” là giả dối, nước CS trưng ra khẩu hiệu ấy nhưng thực sự họ theo chủ nghiã dân tộc cực đoan, lừa nước khác để mở rộng bờ cõi. Chỉ nước nào lạc hậu, trình độ dân trí thấp, thiếu giác ngộ chính trị nên ăn phải bả lừa dối (như chính nước ta) và bị thiệt thòi, có thể mất nước.Có thể người ta đứng nhìn hai nước CS đấu đá nhau mà vỗ tay, cứ để hai thẳng CS tiêu diệt nhau xem sao. Người thiếu giác ngộ chính trị lại đi giáo dục cái thiếu giác ngộ ấy cho nửa dân tộc (miền Bắc) lại chính là “Bác Hồ vĩ đại” được cả thế giới ca ngợi. Đến lúc gần tắt thở rồi mà Bác ta vẫn còn đau lòng khi thấy thế giới CS mất đoàn kết. Sau này, gần đây thì tổng Trọng Lú có lặp lại vở kịch ấy bằng cách bật khóc trong một hội nghị gì gì đó của Đảng.Lúc đầu nghe thủ tướng tuyên bố “‘Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông’ “mọi người dân đều khen thủ tướng và muốn ủng hộ thủ tướng vì điều đó phù hợp với lòng dân. Thế nhưng thấy việc làm của thủ tướng thì nhiều người lại đâm ra nghi ngờ, vì một động cơ nào đó CÒN BÍ ẨN nên thủ tướng nói thế. Mặt khác trước kia thủ tướng tuyên bố một số điều (như nếu không chống được tham nhũng thì từ chức và cần có luật biểu tình) nhưng thủ tướng nuốt lời, nói một đằng làm một nẻo.Một mặt thủ tướng coi trọng chủ quyền nhưng mặt khác chính thủ tướng lại cho Tàu khai thác bâu xít ở vùng chiến lược Tây nguyên và cho Tàu thuê đất rừng ở biên giới. Đến bây giờ thủ tướng mới thấy lộ rõ mặt thằng Tàu, sao thủ tướng chậm giác ngộ thế? Điều thể hiện rõ nhất làm người dân nghi ngờ là vừa hôm trước cho dân biểu tình thì ngày hôm sau lại ngăn cấm biểu tình và không thả những người trước đây biểu tình chống Trung quốc bị bắt oan.Cái nhà nước CS do thủ tướng điều hành có lắm điều kỳ lạ, ngược chiều với các nước khác.
Nhà nước này thắng dân nhưng lại thua giặc,
nhà nước này đánh dân nhưng lại kêu gọi hòa bình với giặc,
nhà nước này khôn với dân nhưng dại với giặc,
nhà nước này cảnh giác với dân nhưng lại mất cảnh giấc với giặc,
nhà nước CS này không dựa vào dân mà dựa vào giặc,
nhà nước này cướp đất của dân nhưng lại dâng đất cho giặc.
Nhà nước CS này đối phó với dân thì thành công nhưng đối phó với giặc thì thất bại.
Nhà nước này bí mật với dân nhưng phô bầy với giặc, hội nghị Thành Đô thế nào thì dân không biết, nhưng giặc biết rõ như ban ngày. Liệu điều này thì thủ tướng có dám phanh phui cho toàn dân biết không?TÓM LẠI NHÀ NƯỚC CS NÀY COI DÂN LÀ THÙ, COI GIẶC LÀ BẠNCuối cùng dẫn đến kết quả nhà nước CS này vừa bị dân oán ghét vừa bị giặc xâm chiếm.* Nguyễn Thiện:Một số người vì quan tâm và muốn tốt cho VN hoặc vì muốn thấy VN bước ra khỏi tình thế bức bí hiện nay cho nên mới hoan hô ông TT Dũng vì một câu nói mang tính chính trị mục đích làm giảm bớt sự căm phẫn của người dân.Đi mà tin lời các ông cộng sản thì có nước THÁC. Tiếp tục độc quyền cai trị VN, gìn giữ uy tín và các bí mật của đảng và nhà nước mới là quan trọng. Mọi thứ như biển đảo đất đai biên giới nếu TQ chiếm lấy cũng không làm  đảng CSVN nao núng.Tôi tin rằng chỉ trong vòng 6 tháng-9 tháng sắp đến, tất cả mọi lời nói của ông Thủ Tướng Dũng, hay các ông kia đều sẽ rơi vào quên lãng, và mọi chuyện rồi sẽ êm xuôi; Trung Quốc vẫn tiếp tục kế hoạch bồi đắp đá ngầm Gạc Ma thành đảo nổi trên mặt biển; sẽ tiếp tục khai thác dầu chung quanh vùng Hoàng Sa; sẽ thanh toán các đảo trong quần đảo Trường Sa. Hai đảng sẽ giao hảo tốt với nhau như mọi lần.

(Năm ngoái, báo chí nước ngoài ghi nhận rằng 6 năm qua 2007-2013, trên trường quốc tế, chính phủ Hà Nội đã không còn nhắc đến tên Hoàng Sa nữa; trong tương lai, Hà Nội sẽ làm y như thế với Trường Sa).

Sở dĩ kỳ nầy Hà Nội lên gân vung vít chút xíu, đó là vì VN coi nguồn tài nguyên dầu khí là TÍN DỤNG, là nguồn thu nhập để các nước ngoài và tổ chức tín dụng và tài chánh quốc tế cho VN mượn tiền bấy nhiêu năm nay. Nay, Trung Quốc vào Biển Đông khai thác dầu khí là thọc tay vào túi tiền của đảng là chia phần với đảng và nhà nước (tổng doanh thu của PVN là 37 tỷ đô la hàng năm, PVN đóng góp 195 nghìn tỷ đồng vào ngân sách ngân sách 2013, tương đương với 24%.) Thậmchí, Trung Quốc có thể sẽ mời VN chung nhau khai thác dầu khí, chia hai, thế là Việt Nam nghe theo.

Nhưng lá bùa của Trung Quốc là họ đang nắm giữ các bí mật, hiệp định ký kết giữa hai nhà nước và hai đảng. Đảng và Nhà nước sẽ CHÙN TAY một khi Trung Quốc hăm dọa sẽ đưa các thứ này ra ánh sáng. Chuyện nầy từng xảy ra vài lần trong quá khứ. Một thí dụ là vụ ký hiệp định Biên Giới Trên Bộ 31-12-1999. Trước đó, VN còn chần chừ chưa ký, thì TQ xì ra vài thứ trên mạng internet. Kết quả, chính quyền Hà Nội lo sợ xanh mặt và vội vã ký ngay, và để mất hàng ngàn km vuông ở phía Bắc.

Đảng và uy tín của đảng là cao hơn hết thảy. Chuyện HS và TS là quá khứ; chỉ là sự đổi chác, thuận mua, vừa bán.

Chuyện gì họ cũng dám làm hết. Các bạn search trên google sẽ thấy rất nhiều bài báo viết rằng: 18 tỉnh Việt Nam cho nước ngoài thuê đất trồng rừng với hợp đồng 50 năm… “Đến tháng 8-2010, tổng diện tích đất lâm nghiệp cho nhà đầu tư nước ngoài thuê để trồng rừng 100% vốn nước ngoài được cấp GCN đầu tư là gần 289.000 ha và hơn 21.600 ha liên doanh liên kết là giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước. Trong số các công ty nước ngoài đã được phép đầu tư, chỉ riêng InnovGreen (Hong Kong, Trung Quốc) đã thuê tới 274.848 ha, chiếm 87% diện tích đất thuê. Đến nay, Công ty InnovGreen với 8.123 ha đã được cấp đã nộp ngân sách 77.946 USD, giá thuê đất trồng rừng trung bình 9,58 USD/ha, tương đương 180.000 đồng/ha. Ủy ban KH-CN&MT cho rằng mức giá trên là quá thấp.

http://www.baomoi.com/Cho-nuoc-ngoai-thue-dat-trong-rung-Gia-thue-1-ha-chi-180000-dong/147/5104070.epi

http://dantri.com.vn/kinh-doanh/7-ong-lon-doanh-thu-tren-100000-ty-dong-nam-2013-828754.htm
http://cafef.vn/kinh-te-vi-mo-dau-tu/tap-doan-dau-khi-nop-ngan-sach-195-nghin-ty-dong-nam-2013-201401160829365575ca33.chn

————

*Các bạn suy gẫm lời nói của những người sống cùng thời với ông HCM, Mao, Staline, Lê Duẫn…, những người nầyđã chứng kiến buổi bình minh, sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa cộng sản, và họ đã tiên đoán đúng 100% những gì đang xảy ra tại Việt Nam 2014

Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam, hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm:

[Trích] Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.

Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.

Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212) Chính Đề, Ngô Đình Nhu, 1960.

——–

Về mặt đạo đức, CNXH không thể tạo dựng mà chỉ phá hủy, nền tảng của tất cả các giá trị đạo đức, tự do, và trách nhiệm cá nhân.

Về mặt chính trị, nó sớm hay muộn dẫn tới chính phủ toàn trị.

Về mặt vật chất, nó sẽ làm tổn hại đáng kể quá trình tạo ra của cải, nếu không muốn nói, nó là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo trên thực tế.  

F.A. HAYEK (1899-1992), kinh tế gia, triết gia người Áo, đoạt giải Nobel kinh tế 1974. 

———

►Thiếu tướng Lê Duy Mật yêu cầu đảng CSVN tổng kết cuộc chiến 1979-1984 và công bố các văn bản của Thỏa hiệp Thành Đô  (20-7-2014)

►Đại Tá an ninh Nguyễn Đăng Quang: Phải công bố các thỏa thuận Thành Đô tháng 9/ 1990 cho nhân dân biết (3-8-2014)

►Đơn gửi các vị tuyên huấn, tuyên giáo ĐCSVN về thỏa hiệp Thành Đô 9/1990 (7-8-2014)

►Phải công khai tất cả nội dung của hội nghị Thành đô-Tại sao đảng giấu kín mà không vinh danh Hội Nghị Thành Đô 1990

13 bình luận to “►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 27)”

  1. […] ►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần&nb… […]

  2. […]  ►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 2… […]

  3. […] ►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 2… […]

  4. […] ►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 27… […]

  5. […] ► Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 2… […]

  6. một nhận thức kém cỏi thời buổi hiện giờ mà còn ấu trĩ

  7. […] Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần …biết […]

  8. […]  ►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 2… […]

  9. […] vật trung tâm cùng tướng Lê Đức Anh mẫn cán thu xếp cuộc gặp lịch sử ở Thành Đô tháng 9/1990, “đánh dấu thời kỳ Bắc thuộc mới cực kỳ nguy hiểm”, như ông Nguyễn Cơ […]

  10. […]  ►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 2… […]

  11. […] ►Hội Nghị Thành Đô Ngày 3 Và 4-9-1990- Những Sự Thật Cần Phải Biết (Phần 27… […]

  12. […]  ►Hội Nghị Thành Đô ngày 3 và 4-9-1990- Những sự thật cần phải biết (Phần 2… […]

  13. Tra Anh Thư said

    Sự việc bán nước của csVN cho Tàu qua HN Thành Đô 1990 và Công Hàm 58 của Phạm văn Đồng đã khiến Hà Nộ ngày nay không dám và sẽ không bao giờ dám kiện Trung cộng ra toà án quốc tế vì sợ Trung cộng trưng ra những bằng chứng bán nước nói trên cũa csvn.

Bạn cứ phịa ra một email hoặc tên nào đó để viết ý kiến. Comment của tất cả các bạn đọc sẽ được hiện ra.

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.