Trần Hoàng Blog

►Mỹ lơ là “mất kiểm soát” Trung Quốc từ khi nào? —TT Bill Clinton, và George W. Bush đã bảo lãnh cho Trung Quốc trỗi dậy (26-2-2018)

Posted by hoangtran204 trên 28/02/2018

 

 

Mỹ lơ là “mất kiểm soát” Trung Quốc từ khi nào?

HỒNG THỦY 

(GDVN) – Đặng Tiểu Bình đã qua mặt Mỹ bằng chiến lược “giấu mình chờ thời”, Mỹ thổi gió mới vào kinh tế Trung Quốc, để rồi Trung Quốc trở thành đối thủ đáng gờm.

Chúng tôi xin giới thiệu đến quý bạn đọc phần tiếp theo trong bài phân tích của học giả Hal Brands từ Trường Chính sách công Sanford, Đại học Duke trên The National Interest, về diễn biến nhận thức và phản ứng trong chính sách của Hoa Kỳ với Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương.

Hal Brands nhận định, rõ ràng những nỗ lực của Hoa Kỳ (đã phản ánh trong bài viết “Mỹ nhận thức được mối đe dọa từ Trung Quốc từ lâu, nhưng phản ứng đủng đỉnh”) đã không theo kịp những thách thức.

Trung Quốc và những thay đổi “vượt kiểm soát” 

Cán cân quân sự khu vực đã dịch chuyển mạnh mẽ sang phía Trung Quốc. Năm 2015, tổ chức nghiên cứu và phân tích RAND Corporation ra báo cáo đánh giá:

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang tiệm cận một loạt các “điểm bùng phát” mà Bắc Kinh tin, họ có thể thành công bằng việc dùng vũ lực trong các cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan, thậm chí là Biển Đông. [1]

Một nhà quan sát khác dự đoán: “Vào thập kỷ tới, sự phát triển về mặt quân sự của Trung Quốc sẽ cho phép họ có khả năng thống trị bầu trời và vùng biển ở Tây Thái Bình Dương.” [2]

Hoa Kỳ cũng đang phải vật lộn để đối phó với chiến thuật cưỡng bức ngắn của Trung Quốc;

Các quan chức chính quyền Tổng thống Barack Obama đã phải thừa nhận, Washington đã thất bại nặng nề trong việc ngăn chặn Bắc Kinh bành trướng trên Biển Đông bằng việc đảo hóa, quân sự hóa và đe dọa các nước láng giềng.

Các “xúc tu kinh tế” của Trung Quốc đã lan rộng khắp khu vực, cho phép Bắc Kinh tăng đòn bẩy ở cả những quốc gia xa “ngoại vi” như Australia.

Năm 2016 Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte nói rằng, nước Mỹ đã mất (vị thế, ảnh hưởng) ở châu Á – Thái Bình Dương.

Tuy phát biểu của ông chủ Điện Manacanang có phần phóng đại, nhưng tình hình thực tế quả thật đang ngày càng trở nên ảm đạm hơn.

Washington có bị lừa bởi Đặng Tiểu Bình “giấu mình chờ thời”? 

Trong khi đó Hoa Kỳ đã hỗ trợ mạnh mẽ sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Bằng việc mở cửa thị trường Mỹ cho Trung Quốc, đưa Bắc Kinh vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thúc đẩy chuyển giao công nghệ và đầu tư nước ngoài sang Trung Quốc, Mỹ đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế đáng kinh ngạc của Trung Quốc.

Hơn nữa, Mỹ đã khuyến khích Trung Quốc tăng cường vị thế của họ trên trường quốc tế, bằng cách thúc đẩy Bắc Kinh tham gia nhiều hơn vào việc giải quyết những thách thức toàn cầu, từ biến đổi khí hậu đến chống phổ biến vũ khí hạt nhân.

Năm 2010 Ngoại trưởng Hillary Clinton đã chỉ ra rằng:

Trung Quốc đã có kinh nghiệm phát triển và phát triển ngoạn mục kể từ khi tái lập quan hệ với Hoa Kỳ. Thật khó có thể đưa ra lời buộc tội rằng Mỹ “kiềm chế” Trung Quốc. [3]

Đối với các nhà sử học, hành vi của Mỹ với Trung Quốc sẽ là một câu đố hóc búa, tại sao Hoa Kỳ lại “phản ứng một cách vô nghĩa” như vậy đối với sự trỗi dậy của một đối thủ đáng gờm như Trung Quốc?

Một phần câu trả lời chắc chắn sẽ nằm trong các chiến lược cụ thể Trung Quốc đã theo đuổi để làm chậm lại phản ứng của Hoa Kỳ.

Từ cuối những năm 1980 đến cuối những năm 2000 Trung Quốc đã triệt để tuân thủ chính sách “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình.

Bắc Kinh cố gắng thể hiện một hình ảnh bên ngoài không đe dọa, nhấn mạnh cam kết trỗi dậy hòa bình.

Đặng Tiểu Bình thăm Hoa Kỳ năm 1979 trên cương vị Phó Thủ tướng, nhưng thực tế là người nắm quyền cao nhất ở Trung Quốc bấy giờ. Bên cạnh là Tổng thống Mỹ Jimmy Carter. Ảnh: AP

Sau 2008, hành vi của Trung Quốc bắt đầu trở nên hung hăng hơn, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và nhận thức về việc cắt giảm việc làm của Mỹ đã thuyết phục các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng, cửa sổ địa chính trị cho đất nước họ đang mở ra.

Nhưng ngay cả khi Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh hơn nữa ảnh hưởng của họ trong khu vực, Bắc Kinh đã sử dụng các chiến thuật xâm lấn như xây dựng đảo, dùng cảnh sát biển và lực lượng bán vũ trang kiểm soát các khu vực (họ nhảy vào) tranh chấp ở Biển Đông.

Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp gây sức ép phi chiến tranh được thiết kế một cách có chủ ý để không gây ra các phản ứng quân sự từ Hoa Kỳ.

Bắc Kinh đã chứng tỏ họ rất giỏi trong việc tăng cường vị thế của mình, đồng thời hạn chế khả năng chống lại điều này từ các đối thủ.

Tuy nhiên, các chiến lược này của Trung Quốc chứng minh được hiệu quả cũng vì bởi Mỹ đã tự giới hạn mình.

Trong thế kỷ qua, chính sách của Mỹ đã được định hình bằng một loạt các ý tưởng cốt lõi về cách phản ứng tốt nhất với sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Tất cả những ý tưởng này đều chân thành và có thiện chí, theo Hal Brands, tất cả đều chứa đựng các yếu tố hợp lý. Thậm chí trong nhiều trường hợp chúng hợp lý ngay cả bối cảnh mà các ý tưởng này nảy sinh.

Nhưng tất cả các ý tưởng này đều đại diện cho sự phản ứng kém, hơn là phản ứng quá mức đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Sau sự kiện Thiên An Môn, năm 1993 cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc Winston Lord dự đoán “sẽ có một chính phủ trung dung và nhân đạo hơn ở Bắc Kinh”, sẽ hòa bình hơn trong quan hệ ngoại giao và có thái độ tích cực hơn với Mỹ. [4]

Cuối cùng, việc tái cơ cấu của Trung Quốc đầu thập niên 1990 đã dội một gáo nước lạnh (lên Washington), vì nó cho thấy “lịch sử vẫn chưa kết thúc”.

Có điều, để đáp lại với thực tế này, các quan chức Hoa Kỳ chỉ đơn giản điều chỉnh lý luận.

Nguồn:

http://nationalinterest.org/feature/the-chinese-century-24557?page=2

[1]https://www.rand.org/pubs/research_reports/RR392.html

[2]https://www.amazon.com/Fire-Water-America-Future-Pacific/dp/1612517951/ref=as_li_ss_tl?_encoding=UTF8&qid=1518109069&sr=1-2&linkCode=sl1&tag=thenatiinte-20&linkId=4be7390b76a80f023625fa3dd980e571

[3]https://www.reuters.com/article/us-asia-clinton/u-s-not-seeking-to-contain-china-clinton-idUSTRE69R5AI20101029?loomia_ow=t0:s0:a49:g43:r5:c0.045714:b38836058:z0

[4]https://archive.org/stream/congressionalrec136aunit#page/n13/mode/1up

 

________

Bill Clinton, George W. Bush đã bảo lãnh cho Trung Quốc trỗi dậy

HỒNG THỦY 

(GDVN) – Mỹ tin rằng thúc đẩy toàn cầu hóa và thúc đẩy dân chủ theo mô hình Mỹ đi đôi với nhau, thương mại phát triển sẽ khiến các công dân Trung Quốc tự giải phóng.

Tiếp theo bài viết “Mỹ lơ là “mất kiểm soát” Trung Quốc từ khi nào?”, chúng tôi xin giới thiệu đến quý bạn đọc những bình luận, đánh giá của học giả Hal Brands từ Trường Chính sách công Sanford, Đại học Duke trên The National Interest.

Bill Clinton, George W. Bush “diễn biến” Trung Quốc bất thành

Theo Hal Brands, lãnh đạo cũng như giới tinh hoa Hoa Kỳ từng tin rằng, thể chế chính trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có thể tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng chắc chắn không bền vững trong tương lai xa.

Mỹ đã thúc đẩy quan hệ thương mại lớn hơn với Bắc Kinh với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc.

Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tại Washington năm 1997, ảnh: Reuters.

Tầng lớp này sẽ đòi hỏi các quyền chính trị lớn hơn.

Washington tin rằng thúc đẩy toàn cầu hóa và thúc đẩy dân chủ theo mô hình Mỹ đi đôi với nhau, thương mại phát triển sẽ khiến các công dân Trung Quốc tự giải phóng.

Họ quan niệm, chỉ những xã hội thực sự tự do (kiểu Mỹ) mới có thể cạnh tranh trong một thị trường toàn cầu hội nhập.

Tổng thống Bill Clinton năm 2000 từng lập luận:

“Trung Quốc tự do hóa nền kinh tế sẽ giải phóng được tiềm năng của người dân đất nước họ một cách trọn vẹn.

Và khi các cá nhân có quyền, họ không chỉ mơ ước, mà còn có thể thực hiện ước mơ của mình, lúc đó họ sẽ đòi hỏi có tiếng nói lớn hơn.”[1]

Tổng thống George W. Bush thì tin rằng, khi Hoa Kỳ mở cửa làm ăn tự do thương mại với Trung Quốc, sẽ góp phần vào sự giàu có của Mỹ mà không phải lo những hậu quả địa chính trị.

Ông tin các lực lượng hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, cuối cùng sẽ dẫn đến biến đổi chế độ tại Trung Quốc. Năm 2000 ông George W. Bush kêu gọi:

“Thương mại tự do với Trung Quốc, và thời gian đang đứng về phía chúng ta.” [2]

Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tại Thượng Hải năm 2001, ảnh: ee.china-embassy.org

Những ý tưởng này được James Mann gọi là “tình huống êm dịu”, có sức hấp dẫn đối với niềm tin sâu đậm của người Mỹ rằng, mô hình chính trị của Hoa Kỳ vừa là mong muốn về mặt đạo đức, vừa là nhu cầu phổ quát.

Nó phản ánh sự lạc quan về ý tưởng hệ tư tưởng thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, đã hòa hợp tốt với các tài liệu khoa học xã hội mới nhất về mối quan hệ giữa thịnh vượng và dân chủ, giữa nền dân chủ với hòa bình.

Ít nhất, nó hữu ích trong việc đảm bảo rằng người Mỹ có thể tăng cường thương mại với Trung Quốc và “thưởng thức” các lợi ích kinh tế to lớn mà mối quan hệ này mang lại, nhưng không phải bỏ qua các giá trị đạo đức hoặc lợi ích an ninh quốc gia.

Ông Bill Clinton từng lập luận, nếu điều đó là sự thật thì sự lựa chọn giữa lợi ích kinh tế với nhân quyền, giữa an ninh kinh tế với an ninh quốc gia, là một sai lầm.

Mỹ vô hình trung bảo lãnh cho sự trỗi dậy của đối thủ

Thực tế theo thời gian những quan điểm nói trên ngày càng khó đứng vững.

Trung Quốc đã không tiến tới mô hình như Hoa Kỳ mong muốn và các nỗ lực Mỹ đã theo đuổi trong thế kỷ qua, ngay cả khi Trung Quốc trở nên giàu có hơn.

Thu nhập bình quân đầu người và cơ hội hội nhập kinh tế toàn cầu của Trung Quốc đã tăng lên. 

Có kinh tế và tiềm lực quân sự, Trung Quốc bắt đầu tranh giành ảnh hưởng với Mỹ ở Biển Đông, ảnh minh họa: Nhân Dân nhật báo.

Nhưng các nhà lãnh đạo quốc gia này đã sử dụng sự thịnh vượng kinh tế của họ để tìm kiếm tính hợp pháp, Hal Brands lưu ý.

Ông nghi ngờ khả năng Trung Quốc sẽ “diễn biến” thành một nền dân chủ (theo mô hình Mỹ) trước khi họ phát triển đủ mạnh để làm gián đoạn nghiêm trọng trật tự quốc tế.

Từ lâu hoa Kỳ đã cảm thấy chính họ đã góp phần bảo lãnh cho sự phát triển của Trung Quốc.

Kể từ cuối những năm 1980, các quan chức Mỹ đã tin tưởng một cách đích xác rằng, sự trợ giúp của Trung Quốc là rất quan trọng để giải quyết một loạt các vấn đề toàn cầu.

Từ tranh chấp thương mại đến vi phạm bản quyền, từ chống chủ nghĩa khủng bố đến biến đổi khí hậu, Mỹ tin rằng đều cần phải có tiếng nói của Trung Quốc.

Cả hai đảng trên chính trường Mỹ đều tin, Washington có thể giúp đỡ Bắc Kinh những vấn đề này, đồng thời “kiểm soát” được hành vi của Trung Quốc một cách rộng rãi hơn, bằng cách đưa họ vào hệ thống quốc tế;

Mỹ muốn chứng minh cho Trung Quốc thấy, họ có thể trở nên giàu có, có quyền lực và được tôn trọng bằng cách chấp nhận các luật chơi.

Biển Đông đang trở thành đấu trường cạnh tranh Trung – Mỹ, ảnh minh họa: anonhq.com.

Năm 2005 Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Robert Zoelick tuyên bố, Mỹ muốn Trung Quốc cùng làm việc để duy trì hệ thống quốc tế đã giúp Bắc Kinh thành công.

Tuy nhiên nguồn gốc của quan điểm này đã có từ thời Bill Clinton và thậm chí xa hơn nữa, thời George HW Bush.

Năm 1989 Thứ trưởng Ngoại giao Lawrence Eagleburger lập luận, Hoa Kỳ có thể đạt được sự hợp tác của Trung Quốc trong việc chống phổ biến vũ khí hạt nhân ngay cả khi Mỹ cấm vận Trung Quốc sau vụ Thiên An Môn.

Ngoại trưởng Madeleine Albright năm 1997 đã lập luận:

“Trung Quốc là một thế lực đang nổi lên trong các vấn đề châu Á và thế giới.

Lịch sử của thế kỷ này dạy cho chúng ta sự khôn ngoan của việc cố gắng hướng một thế lực như vậy tham gia một cách có trách nhiệm vào hệ thống quốc tế, chứ không phải đẩy Trung Quốc vào sa mạc của sự cô lập”. [3]

Kết quả là các quan chức Hoa Kỳ đã làm việc tích cực suốt một phần tư thế kỷ để giúp Trung Quốc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.

Họ tin rằng một nước Trung Quốc giàu có sẽ là một quốc gia (khiến phần còn lại của thế giới) hài lòng, toàn cầu hóa sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác cùng có lợi mà Bắc Kinh không muốn phá vỡ.

Nguồn:

http://nationalinterest.org/feature/the-chinese-century-24557?page=3

[1]http://www.nytimes.com/2000/03/09/world/clinton-s-words-on-china-trade-is-the-smart-thing.html

[2]http://www.nytimes.com/2000/05/18/world/in-bush-s-words-join-together-in-making-china-a-normal-trading-partner.html

[3]https://web-archive-2017.ait.org.tw/en/officialtext-bg9725.html

Mỹ lơ là "mất kiểm soát" Trung Quốc từ khi nào?

Mỹ lơ là “mất kiểm soát” Trung Quốc từ khi nào?

Quốc tế  5

Mỹ nhận thức được mối đe dọa từ Trung Quốc từ lâu, nhưng phản ứng đủng đỉnh

Mỹ nhận thức được mối đe dọa từ Trung Quốc từ lâu, nhưng phản ứng đủng đỉnh

Quốc tế 

Nước Mỹ bừng tỉnh cơn mê vì những kỳ vọng vào Trung Quốc

Nước Mỹ bừng tỉnh cơn mê vì những kỳ vọng vào Trung Quốc

Quốc tế  5

 

Mời các bạn đọc loạt 2 bài của Trần Hoàng dịch  20/12/2008 về chiến lược đối phó với TQ.

Đăng trên blog của Trần Hoàng và anhbasam ngày 20/12 và 30/12/2008.

Châu Á Đứng Dậy

(Phần I)

Aaron I. Friedberg

Người dịch: Trần Hoàng

——-
Châu Á Đứng Dậy – Chiến Lược Của Mỹ (Phần II) « Trần Hoàng dịch và đăng ngày 20 thg 12, 2008 · 
Sự xây dựng lực lượng vũ trang của Bắc Kinh …
——-
• Các bạn cũng có thể vào google.com》và gõ chữ: “hoangtran204: Châu Á Đứng dậy” để xem loạt bài về đề tài Mỹ, Trung Quốc, Nga, Việt Nam 

 

_____

Bạn cứ phịa ra một email hoặc tên nào đó để viết ý kiến. Comment của tất cả các bạn đọc sẽ được hiện ra.

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.