Phải chăng Nguyễn Ái Quốc muốn làm rể hùm thiêng Yên Thế
13-2-2014
Tác giả: Trần Gia Phụng
Ngày 30-7-1909, Pháp cử Lê Hoan, tổng đốc Hải Dương, cầm quân Việt cùng quân Pháp tấn công căn cứ của Đề Thám tức Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám. Yên Thế nằm ở tây-bắc tỉnh Bắc Giang ngày nay. Lê Hoan ngăn chận những nguồn tiếp liệu của Đề Thám, trừng phạt thật nặng những làng nào tình nghi chứa chấp hay yểm trợ cho Đề Thám, nên dần dần dân chúng giảm việc giúp đỡ Đề Thám.
Đề Thám rút lên gần Tam Đảo giữa Vĩnh Yên và Thái Nguyên.
Một trận đụng độ lớn xảy ra ngày 5-10-1909 tại núi Lang, gần Tam Đảo. Quân Pháp chết 7 người, bị thương 21 người. Quân Lê Hoan thiệt mạng 9 người, bị thương 10 người. Đề Thám chỉ còn khoảng 20 quân. Cả Rinh và Đội Sơn, hai thủ hạ thân cận của Đề Thám đầu hàng Lê Hoan.
Tối 30-11 rạng sáng 1-12-1909, bà Ba Nhu, tức bà vợ thứ ba của Đề Thám, cùng con gái là Hoàng Thị Thế, bị bắt.
Quân Pháp tiếp tục đeo bám Đề Thám hết sức gắt gao, nhưng vẫn không bắt được Hùm Thiêng Yên Thế. Ông ẩn hiện khắp nơi vùng Yên Thế thượng và Yên Thế hạ, giữa Thái Nguyên, Nhã Nam và Phủ Lạng Thương. Pháp không biết cách nào bắt cho được Đề Thám, liền nhờ đến Lương Tam Kỳ
Lương Tam Kỳ là một dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa, tràn sang nước ta làm thổ phỉ. Sau hòa ước Thiên Tân lần thứ hai ngày 9-6-1885 giữa Pháp và Trung Hoa về vấn đề Việt Nam, quân Trung Hoa rút về nước, Lương Tam Kỳ ở lại hoạt động vùng Chợ Chu (bắc Thái Nguyên), xuống tới Tam Đảo (giữa Thái Nguyên và Phúc Yên). Năm 1889, Pháp đem quân tấn công. Lương Tam Kỳ xin hàng với điều kiện được chia đất cai trị và được trả lương. Phủ toàn quyền Pháp đồng ý, giao cho Lương Tam
Kỳ cai quản 4 tổng gần Chợ Chu và 42,000 đồng Đông Dương một năm. Lương Tam Kỳ ở yên trong 4 tổng đó và quân Pháp cũng không được vào 4 tổng đó. Lương Tam Kỳ giữ đúng lời hứa cho đến khi chết già.
Được Pháp thuyết phục, Lương Tam Kỳ gởi ba “khách trú” (chỉ người Trung Hoa), giả làm người của tướng Liên bên Quảng Tây (Trung Hoa), đến liên lạc với Đề Thám ở Yên Thế thượng vào ngày 10-1-1913. Tuy đang cần sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng Đề Thám cũng rất cẩn thận đề phòng, nên mãi đến một tháng sau, ngày 9-2-1913, ba người nầy mới ra tay, hạ thủ được Đề Thám trong lúc ông đang ngủ. (Paul Chack, Hoang-Tham Pirate, Paris: Les Éditions de France, 1933, tt. 261-263.) Lúc đó, Đề Thám 52 tuổi (tuổi ta). Thế là Hùm Thiêng Yên Thế bị sa cơ, chấm dứt một cuộc đời oanh liệt, và chấm dứt luôn cuộc kháng chiến chống Pháp dai dẳng nhất từ khi Pháp chiếm nước ta năm 1884.
Về phần bà Ba Nhu, trước đây, các tài liệu đều ghi rằng bà tên là Đặng Thị Nhu, vợ thứ ba của Hoàng Hoa Thám và là một tướng lãnh giỏi của nghĩa quân Yên Thế, giúp chồng rất đắc lực. Theo tài liệu của một ký giả đã lên Yên Thế, và gặp cháu của Hoàng Hoa Thám là bà Hoàng Thị Hải, con của ông Cả Phồn, thì bà Ba Nhu có tên là Nguyễn Thị Nho, còn được gọi là bà Ba Cẩn. (Lê Xuân Sơn, “Con gái ông Đề Thám”, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 50-94, TpHCM: ngày 18-12-1994.)
Sau khi bị bắt, bà Ba Nhu bị giam ở Hỏa Lò, Hà Nội và bị kết án đày đi Guyanne thuộc Pháp ở Trung Mỹ. Trên đường đi, bà nhảy xuống biển tự tử ngày 25-12-1910.
Con gái của bà Ba Nhu với Hoàng Hoa Thám là Hoàng Thị Thế, được người Pháp gởi qua Pháp nuôi ăn học (1909 ?). Bà Thế trở về Việt Nam năm 1923, và qua Pháp trở lại vào đầu năm 1927. (Charles P. Keith, “The Curious Case of Hoàng Thị Thế”, đăng trên tập san Journal of the Vietnamese Studies, số 8, hè 2013, University of California, Berkeley, tr. 91.)
Theo bài báo nầy, vào đầu năm 1929, khi làm giấy tờ xin đi Việt Nam, bà Hoàng Thị Thế khai với nhân viên phụ trách rằng vào tháng 3-1928, Nguyễn Ái Quốc gởi một phái viên đến gặp bà ta và thuyết phục bà ta thành hôn với Nguyễn Ái Quốc. Bà Thế cũng cho biết rằng lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã cưới một phụ nữ Nga và Quốc đã đến thành phố Lille trong hai năm 1927 và 1928. Từ đó Quốc thường đến Lille bằng một bí danh. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 99.) Lille là một thành phố kỹ nghệ nằm ở phía bắc nước Pháp, gần sát biên giới với nước Bỉ (Belgium)
Bà Thế còn thêm rằng đây không phải là lần đầu tiên bà là mục tiêu bị Nguyễn Ái Quốc theo dõi. Bà nói rằng khi còn ở Đông Dương, năm 1927 “bốn người bản xứ đến tìm bà ở Sài Gòn để ép bà đừng lên tàu thủy. Họ sẽ đưa bà qua Xiêm La [Thái Lan] bằng xe hơi và kết hôn với Nguyễn Ái Quốc…” (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 100.)
Trong thời gian nầy, Nguyễn Ái Quốc, ủy viên Đông phương bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS), qua Trung Hoa tháng 10-1924, hoạt động tình báo cho Liên Xô với bí danh mới là Lý Thụy.
Tại Quảng Châu, Lý Thụy hợp tác với Lâm Đức Thụ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi Phan Bội Châu từ Hàng Châu đến ga Thượng Hải ngày 1-7-1925. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, nguyên bản bằng tiếng Anh (From colonianism to communism), Mạc Định dịch, Paris, 1962, tr. 38. Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, Đài Bắc: Nxb. Truyện Ký Văn Học, 1972, bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.) Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu nhắm mục đích vừa để lãnh thưởng, vừa để loại bỏ nhà lãnh đạo cách mạng dân tộc uy tín nhất ở hải ngoại và giành lấy tổ chức của ông.
Sau vụ nầy, có thể nhờ có tiền lãnh thưởng, Lý Thụy tức Nguyễn Ái Quốc tổ chức lễ kết hôn với một nữ đảng viên cộng sản Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh (1905-1991) vào tháng 10-1926.
Lễ kết hôn diễn ra tại nhà hàng Thái Bình, thành phố Quảng Châu, có mặt các bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ Châu Ân Lai), Bào La Đình, Thái Sướng. Lý Thụy và Tăng Tuyết Minh chia tay khi chiến tranh Quốc Cộng Trung Hoa bùng nổ ngày 12-4-1927. (Hoàng Tranh (Huang Zheng), “Hồ Chí Minh với bà vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung Hoành tháng 11-2001. Báo Diễn Đàn, Paris, số 121, tháng 9-2002 dịch đăng lại, tt. 17-20.)
Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh (ảnh và bài báo)
Lúc đó, Tưởng Giới Thạch (Quốc Dân Đảng Trung Hoa) chẳng những tấn công đảng Cộng Sản Trung Hoa, mà cả những nhóm cộng sản các nước khác. Nguyễn Ái Quốc bỏ trốn đi Vũ Hán, đến Thượng Hải, theo đường biển lên Vladivostok, qua Moscow khoảng giữa tháng 6 năm 1927. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, Con Người và Huyền Thoại 1892-1924, tập 2: 1825-1945, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1993, tr. 85.)
Tháng 11-1927, Nguyễn Ái Quốc được ĐTQTCS gởi từ Moscow qua Berlin (Đức), và xâm nhập Pháp.
Theo tin tình báo Pháp, Quốc rời Paris ngày 15-12-1927, qua Berlin, rồi qua Bruxelles (Bỉ) đầu năm 1928, tham dự Hội nghị Quốc tế Liên đoàn chống đế quốc. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc qua Đức, chờ quyết định của ĐTQTCS.
Cuối tháng 5-1928, ông đến Ý, và xuống tàu Nhật ở hải cảng Naples, qua Viễn Đông (Chính Đạo, sđd. tt. 93-94.) Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm La tháng 8-1928, lập tỉnh uỷ U-đon, thống nhất việc lãnh đạo Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên Hội ở Xiêm La. (Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, Portland, OR, U.S.A.: Nhóm Tìm Hiểu Lịch Sử, 1991, tr. 43.) Giọt nước trong biển cả, Lời nói đầu – Việt Nam thư quán
So sánh lời khai của bà Hoàng Thị Thế với lịch sinh hoạt của Nguyễn Ái Quốc hay Lý Thụy trong thời gian nầy, hai bên có nhiều điểm gần nhau tuy không khít khao với nhau.
Lúc đó, nhân viên C.A.I. (Contrat d’acceuil et d’intégration) không mấy tin vào lời khai nầy, và cả tiến sĩ Charles P. Keith, giáo sư Sử học tại Michigan State University trích dẫn nguồn tin trên đây trong bài báo đã dẫn, cũng cho rằng lời khai của bà Thế thiếu xác thực. Lời khai của bà Thế với nhà chức trách Pháp được lưu trữ theo hồ sơ C.A.I. về Hoàng Thị Thế, thuộc L’Office français de l’immigration et de l’intégration (OFII), là cơ quan đảm trách việc di dân mới đến đất Pháp cần được hướng dẫn về đời sống tại Pháp.
Dầu nhà chức trách Pháp lúc đó và cả giáo sư Charles P. Keith đều nghi ngờ mức xác tín trong lời khai của bà Hoàng Thị Thế, nhưng có vài câu hỏi cần được đặt ra là:
Tại sao lúc đó bà Thế biết được, dầu không chính xác, hành trình sinh hoạt của Nguyễn Ái Quốc?
Ví dụ bà Thế nói rằng vào đầu năm 1927, trước khi bà xuống tàu thủy rời Sài Gòn đi Pháp, thì có bốn người đến gặp bà và yêu cầu bà bỏ chuyến đi Pháp để họ đưa bà sang Xiêm La và kết hôn với Nguyễn Ái Quốc.
Thực tế cho thấy sau khi cưới bà Tăng Tuyết Minh tháng 10-1926, Nguyễn Ái Quốc còn ở lại Trung Hoa cho đến tháng 6-1927 mới bị truy nã và bỏ trốn qua Liên Xô; tức trong thời gian đầu năm 1927, Quốc có mặt ở Trung Hoa và có thể liên lạc với Việt Nam.
Bà Thế cũng nói rằng tháng 3-1928 Nguyễn Ái Quốc gởi người đến gặp bà tại Pháp và lăp lại lời cầu hôn.
Thực tế cho thấy sau khi Nguyễn Ái Quốc trốn từ Trung Hoa qua Liên Xô tháng 6-1927, thì Quốc được ĐTQTCS gởi qua Đức, rồi qua Pháp tháng 11-1927. Sau đó, Quốc qua Bỉ (Belgium) tham dự Hội nghị Quốc tế Liên đoàn chống đế quốc. Nước Bỉ nằm ở vùng biên giới phía bắc nước Pháp. Chắc chắn Quốc đi lại hoạt động ở vùng giáp ranh Pháp-Bỉ vào đầu năm 1928, giữa Paris (thủ đô Pháp) và Bruxelles (thủ đô Bỉ) cho đến khi qua Ý và xuống tàu thủy từ thành phố Naples (Ý) vào cuối tháng 5-1928 qua Viễn đông.
Bà Thế còn nói rằng Nguyễn Ái Quốc đã đến thành phố Lille trong hai năm 1927 và 1928. Từ đó Quốc thường đến Lille bằng một bí danh. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 99.) Lille là một thành phố kỹ nghệ nằm ở phía bắc nước Pháp, gần sát biên giới với nước Bỉ, giữa vùng Paris và Bruxelles.
Như thế phải chăng lúc đó nếu Nguyễn Ái Quốc không gởi người tới đề nghị cưới bà Hoàng Thị Thế, thì bà Thế cũng có một mối liên lạc nào đó với Nguyễn Ái Quốc mới biết được hành trình của Nguyễn Ái Quốc?
Câu hỏi thứ hai là tại sao bà Hoàng Thị Thế không khai cho người khác đã theo dõi và xin kết hôn với bà, mà lại khai cho Nguyễn Ái Quốc?
Tại Việt Nam và trên thế giới, có biết bao nhiêu là đàn ông, kể cả những đàn ông nổi tiếng, mà bà Thế không khai, lại đi khai cho Nguyễn Ái Quốc, lúc đó đang là đối tượng truy nã của mật thám Pháp, trong khi bà Thế muốn xin đi Việt Nam. Bà khai như vậy thì có lợi gì cho bà?
Vậy giữa Hoàng Thị Thế và Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh tương lai) thực sự có mối liên hệ gì chăng? Phải chăng để thu hút quần chúng, Nguyễn Ái Quốc muốn kết hôn với bà Hoàng Thị Thế nhằm giúp Nguyễn Ái Quốc thêm uy tín từ ảnh hưởng của Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám. Đó là câu hỏi xin đặt ra để những nhà nghiên cứu lưu tâm tìm hiểu thêm.
Ở trong nước hiện nay cũng có báo đề cập đến mối liên lạc giữa bà Hoàng Thị Thế và Nguyễn Ái Quốc, nhưng không đề cập gì đến chuyện Nguyễn Ái Quốc xin kết hôn với bà Hoàng Thị Thế. Ví dụ bài “Gặp con gái cụ Đề Thám ở Hà Nội” của Phạm Quang Đẩu đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân, đưa lên Internet ngày Thứ Bảy 26-01-2013.
Khi nhà báo đặt câu hỏi là bà Thế đã gặp gỡ Nguyễn Ái Quốc lần nào chưa, thì theo bài báo nầy bà Thế trả lời như sau: “Có một lần đến giờ bà vẫn chưa quên- bà Thế nói. Đó là vào mùa xuân năm 1920. Bà lúc đó chưa đến hai mươi, vừa đóng được một bộ phim ở Pháp, vai phụ thôi…”
Bài báo không nói gì đến chuyện Nguyễn Ái Quốc xin cưới bà Hoàng Thị Thế, nhưng cũng xác nhận là bà Hoàng Thị Thế đã gặp Nguyễn Ái Quốc, đồng thời có một điểm sai căn bản. Đó là bà Thế đóng phim lần đầu vào năm 1930 là phim La lettre, chứ không phải năm 1920. Tài liệu về phim nầy hiện còn ở Pháp và niên đại ghi rõ ràng là 1930.
Như thế có thể xảy ra hai trường hợp: 1) Hoặc bà Thế nhớ lầm từ 1930 thành 1920. 2) Hoặc chính cán bộ Phạm Quang Đẩu cố tình đổi từ 1930 thành 1920 cho phù hợp với tuyên truyền của cộng sản về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Paris. Sửa đổi lịch sử cho phù hợp với đường lối của đảng Cộng Sản là việc làm bình thường của cán bộ cộng sản từ trước cho đến nay.
Vào năm 1920, Nguyễn Tất Thành đang ở Paris, cộng tác với các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Cả bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ‘ Indochine au Vietnam, Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tt. 44-45), đồng ký tên vào bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn, do Phan Văn Trường viết (Trần Dân Tiên [tức Hồ Chí Minh], Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1976, tr. 32).
Bản thỉnh nguyện thư nầy gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles sau thế chiến thứ nhất, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L’Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919. Về sau, Nguyễn Tất Thành chiếm dụng danh xưng Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của Nguyễn Tất Thành.
Hồ Chí Minh (tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc…) và những người cộng sản luôn luôn đề cao rằng Hồ Chí Minh suốt đời sống độc thân, không lập gia đình để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Vì vậy báo chí trong nước tránh né không bao giờ nói đến chuyện phụ nữ trong đời sống của Hồ Chí Minh, nên không đả động gì đến mối liên lạc tình cảm giữa bà Hoàng Thị Thế và Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó, dù Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh, đi đâu, ở nơi nào, đều có bóng dáng một người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông. Đây là chuyện bình thường của một người đàn ông, nhưng Hồ Chí Minh và cộng sản luôn luôn che giấu. Vì vậy, chuyện bà Hoàng Thị Thế kể về việc Nguyễn Ái Quốc xin kết hôn với bà cũng có thể xảy ra, nhưng cộng sản cố tình dập bỏ đi.
Riêng bà Hoàng Thị Thế, tại Pháp, bà trở thành diễn viên điện ảnh và có mặt trong ba phim là La lettre (1930), La donna Bianca (1931) và Le secret de l’éméraude (1935).
Vào đầu thập niên 30 thế kỷ trước, nền điện ảnh Pháp bắt đầu chuyển từ phim câm qua phim có tiếng nói, và lúc đó chính phủ Pháp muốn tuyên truyền về sự thành công của Pháp ở các nước thuộc địa Pháp. Vì vậy người ta mời những người bản xứ đóng phim, trình chiếu quang cảnh thuộc địa cho dân chúng Pháp xem. Phim La lettre do Mercanton thực hiện, phỏng theo phim The Letter của Hoa Kỳ dựa trên câu chuyện của Somerset Maugham (1874-1965) viết về một đồn điền cao su ở Mã Lai Á.
Sau phim đầu tiên năm 1930 (La lettre), bà Thế kết hôn vào mùa hè năm 1931 với Robert Bourgès, con môt gia đình sản xuất rượu vang giàu có ở Bordeaux. Năm 1935, bà sinh một con trai, đặt tên là Jean-Marie Albert Arthur Bourgès. Năm sau (1936), do những bất đồng với bà mẹ chồng về việc chăm sóc đứa con, bà Thế ly dị Robert Bourgès, nhưng không được quyền nuôi con. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 107.)
Khi Việt Nam bị chia hai sau năm 1954, cả hai chế độ của hai miền Bắc và Nam Việt Nam đều mời bà Thế về nước năm 1959. Về phần Việt Nam Cộng Hòa, nhân một chuyến công du sang Pháp năm 1959, bà Ngô Đình Nhu được tổng thống Ngô Đình Diệm uỷ nhiệm mời bà Thế hồi hương. (Charles P. Keith, báo đã dẫn, tr. 107.)
Cuối cùng, bà Hoàng Thị Thế chọn lựa trở về Bắc Việt Nam năm 1961 vì bà muốn về sống tại vùng kỷ niệm của song thân ở Yên Thế. Lúc đầu, bà ở Yên Thế, Bắc Giang (Hà Bắc). Tại đây, năm 1963 bà hoàn tất tập hồi ký bằng tiếng Pháp. Năm 1974, bà Thế 74 tuổi, chuyển về Hà Nội, sống ở Khu tập thể ngõ Văn Chương, quận Đống Đa. Cuối cùng bà từ trần ngày 9-12-1988, thọ 88 tuổi, an táng tại Yên Thế, Bắc Giang.
Tập hồi ký của bà Hoàng Thị Thế được Lê Kỳ Anh dịch qua tiếng Việt, nhan đề là Kỷ Niệm Thời Thơ Ấu, Nxb. Hà Bắc ấn hành năm 1975. Lúc đó bà Thế đã lớn tuổi và đã rời Hà Bắc về Hà Nội.
Lê Kỳ Anh tức thi sĩ Hoàng Cầm, vì lúc đó Hoàng Cầm bị treo bút, không được ghi tên tác giả những sáng tác bằng bút danh chính của mình. Không có nguyên bản Pháp văn để so sánh bản dịch của Lê Kỳ Anh, nhưng dù dịch giả cố gắng dịch đúng theo nguyên bản của tác giả, nhưng chưa chắc bản dịch được trung thực theo ý tác giả và dịch giả vì còn phải qua cửa ải kiểm duyệt của nhà xuất bản nhà nước cộng sản. Ai cũng biết tất cả những nhà xuất
bản cộng sản đều chỉ được ấn hành những sách theo đúng chủ trương chính sách đường lối chính trị của đảng Cộng sản mà thôi.
Hiện nay không ai biết số phận nguyên bản cũng như nội dung tập hồi ký bằng chữ Pháp của bà Hoàng Thị Thế như thế nào, nằm trong tay ai hay đã bị đốt cháy? Phải chăng tập hồi ký nầy có liên hệ đến việc Nguyễn Ái Quốc muốn xin kết hôn với bà Hoàng Thị Thế, nghĩa là xin làm rể Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám, nên đã bị cộng sản thủ tiêu mất tích? Nhân tài còn bị cộng sản giết hàng loạt, thì cộng sản sá gì tập hồi ký của một phụ nữ, chỉ nổi danh vì là con của Hùm Thiêng Yên Thế và bà Ba Nhu bất khuất..
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 1-2-2014)
—————————————————————
Gặp con gái cụ Đề Thám ở Hà Nội
QĐND – Có thể mỗi chúng ta từng gặp một hay nhiều “nhân chứng lịch sử”. Với tôi, việc được gặp bà Hoàng Thị Thế là nhân chứng lịch sử đáng nhớ nhất. Bởi bà là con gái út của người anh hùng nông dân Hoàng Hoa Thám đã phất cờ khởi nghĩa chống Pháp bền bỉ suốt gần 30 năm từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Dù hồi đó còn rất nhỏ tuổi, song trong ký ức bà vẫn in đậm những sự việc của cha, mẹ, các anh ruột cùng nghĩa quân ngày ấy. Có những sự việc bà chứng kiến chưa từng được sử sách ghi lại.
Tôi gặp bà tại Hà Nội vào cuối năm 1977, lúc bà đã ở tuổi gần 80, song còn minh mẫn, khỏe mạnh, đặc biệt rất đẹp lão. Dường như cái nhan sắc thời con gái từng là minh tinh màn bạc ở Pháp và Anh còn đọng lại chút nào đó lúc mãn chiều xế bóng nơi bà. Dẫn tôi đến gặp bà là người bạn cùng đơn vị, anh Tôn Gia Khai, con trai thứ của nhà sử học, nhà hoạt động cách mạng Tôn Quang Phiệt, lúc đó là Tổng thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ông Tôn Quang Phiệt từng có một công trình nghiên cứu khá công phu về cuộc khởi nghĩa nông dân Hoàng Hoa Thám, có mối thâm giao với bà Thế.

Bà Nguyễn Thị Nho (Đặng Thị Nho, bà Ba Cẩn) và con gái Hoàng Thị Thế.
Bà Hoàng Thị Thế từ Pa-ri về nước năm 1965, được Nhà nước phân cho một căn hộ khoảng 18 m2 ở tầng 3, khu tập thể ngõ Văn Chương, Đống Đa, Hà Nội. Trong điều kiện khó khăn về nhà cửa lúc đó, có căn hộ vậy cũng là ưu ái lắm. Chồng bà là người Pháp, trước khi về nước hai người đã chia tay nhau, có một con trai. Bà ở một mình, có một người cháu gái giúp việc.
– Cháu nghe nói Bác Hồ đã mời bà trở về quê hương. Vậy thời trẻ tuổi, Bác từng sống và hoạt động ở Pa-ri, bà đã gặp Người lần nào chưa ạ? – Tôi hỏi chuyện bà.
– Có một lần đến giờ bà vẫn chưa quên-bà Thế nói. Đó là vào mùa xuân năm 1920. Bà lúc đó chưa đến hai mươi, vừa đóng được một bộ phim ở Pháp, vai phụ thôi, nhưng đã có người hâm mộ, có lẽ do bà đang độ xuân sắc chứ không phải có tài diễn xuất.
Hôm đó bà vào thăm Bảo tàng Lu-vrơ, thấy đi ngược chiều với mình là một người Việt Nam trạc ba mươi tuổi, dáng cao, gầy, có đôi mắt sáng. Người đó nhìn bà mỉm cười, bà cũng chào đáp lễ. Bỗng người đó nói giọng xứ Nghệ: “Cô Thế ơi, cô có biết cha mẹ cô là ai không?”.
Một câu hỏi lạ lùng, sao bà lại không biết cha mẹ mình cơ chứ. Bà chỉ mỉm cười và khẽ gật.
Người đó nói tiếp: “Mọi người Việt Nam yêu nước thương nòi đều khâm phục tinh thần quả cảm, anh dũng của cụ Đề Thám và bà Ba Cẩn, thưa cô”.
Lúc đó, bà cảm thấy rất tự hào về cha mẹ mình và nhìn người đó khẽ nói: “Cảm ơn! Xin anh cho biết quý danh?”.
Người đó nở một nụ cười thân thiện, trả lời: “Tôi là Nguyễn Ái Quốc”. Và người đó chào, đi ngay.
Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam nổi tiếng bởi anh đã vừa đưa một bản thỉnh nguyện, đòi cho dân Việt Nam được hưởng độc lập, gửi tới các cường quốc đang họp tại lâu đài Véc-xây sau Thế chiến thứ nhất. Người Việt ta ở Pháp ngày đó còn rất ít và việc làm của anh Nguyễn Ái Quốc đã gây được tiếng vang lớn.
![]() |
Cụ Đề Thám và các con. |
Thế rồi ngay khi về nước, bà được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Bác Hồ vẫn còn nhớ cuộc gặp tình cờ ngày ấy, dù đã 45 năm trôi qua và Bác cũng khuyến khích bà viết hồi ức về cha mẹ. Có thời gian bà được giao làm Giám đốc Bảo tàng Yên Thế trên Bắc Giang.
– Ở sách giáo khoa lịch sử bậc phổ thông có viết về cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám, bà thấy thế nào ạ? Tôi hỏi.
– Cũng đúng cả đấy, nhưng chưa đủ-bà Thế nói. Cuốn sách của anh Tôn Quang Phiệt đã bổ sung được một số điều, cũng chưa hết đâu, nhất là phần nói về giai đoạn cuối của cuộc khởi nghĩa, về cái chết của cha, mẹ, các anh trai bà. Giờ bà kể cụ thể thế này cho cháu nghe về một số điều cần bổ sung.
Cha bà họ Trương, Trương Văn Thám, sau lên Bắc Giang mới đổi là Hoàng Hoa Thám. Ông nội bà là Trương Văn Thận, bà nội là Lương Thị Minh, sinh thời đều là những người chuộng nghĩa khí. Hai người từng tham gia cuộc khởi nghĩa nông dân của Nguyễn Văn Nhàn và Nông Văn Vân ở Sơn Tây, song cuộc khởi nghĩa bị đàn áp ngay. Cha bà noi gương bố mẹ, năm 16 tuổi đã tham gia khởi nghĩa của ông Đại Trận (1870-1875).
Rồi khi Pháp chiếm Bắc Ninh tháng 3-1884 thì ông gia nhập nghĩa binh của ông Lãnh Loan. Năm sau, ông lại tham gia nghĩa binh của Cai Kinh ở Lạng Giang. Sau khi Cai Kinh chết năm 1888, cha bà đứng dưới cờ Đề Nắm, trở thành một tướng chỉ huy dũng mãnh. Như thế, trước khi phất cờ khởi nghĩa, cha bà đã có hàng chục năm “thực tập” đánh giặc trong nhiều cuộc khởi nghĩa nhỏ.
![]() |
Bà Hoàng Thị Thế và nhà quay phim Nguyễn Đăng Bảy. Ảnh: Sách Le Đề Thám (Pháp). |
Tháng 4-1892, Đề Nắm bị thủ hạ là Đề Sặt sát hại, Đề Thám mới chính thức nắm lấy ngọn cờ đứng đầu nghĩa binh, lập căn cứ và trở thành “Hùm xám Yên Thế”. Trong gần 30 năm khởi nghĩa, cha bà đã đánh nhiều trận, có hai trận lớn nhất là ở Hố Chuối và Đồng Hom. Nhiều chí sĩ như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Huân… đã liên hệ với ông bàn kế hoạch phối hợp hành động, nhưng đều không đi đến kết quả.
Vụ “Hà thành đầu độc” giữa năm 1908 với sự tham gia vạch kế hoạch của Phan Bội Châu, Đội Nhân thực hiện bị thất bại là một thí dụ. Pháp đã treo thưởng 30.000 phờ-răng cho ai lấy được đầu Đề Thám.
Ngày 29-1-1909, có tới 15.000 quân Pháp và 400 lính dõng do Đại tá Batay chỉ huy đồng loạt đánh vào đồn điền Phồn Xương. Nghĩa quân đánh trả quyết liệt, anh ruột bà là Cả Trọng, tướng giỏi nhất bị tử trận, cha bà cùng mấy thủ hạ thoát được vòng vây, lẩn khuất ở vùng Hố Lầy thêm 4 năm nữa, rồi bị sát hại. Đó là sáng Mồng 5 Tết Quý Sửu (1913).
Còn trong trận ở đồn điền Phồn Xương, bà lúc đó mới khoảng 8 tuổi, chạy theo mẹ và bị Pháp bắt. Mẹ bà tên là Nguyễn Thị Nho, nhưng sử sách sau này cứ gọi là Đặng Thị Nho, ngay cả sách của anh Tôn Quang Phiệt cũng gọi như vậy, chẳng nhẽ bà quên cả họ của mẹ hay sao?
Mẹ bà kể, quê làng Vạn Vân, hồi thiếu nữ xinh giòn, gặp ông Đề Thám đang lánh nạn tại đấy đem lòng yêu, ông đã có hai bà, cưới về gọi là bà Ba Cẩn. Trong các bà, mẹ bà vừa là vợ, vừa là đồng chí của Đề Thám, đã cùng chồng và ba người con trai là Cả Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh vạch nhiều kế hoạch đánh giặc. Bà Ba Cẩn còn phụ trách hậu cần của nghĩa quân. Khi bà Thế bị bắt sang Pháp làm con nuôi, thì nghe tin năm sau, trên đường đi đày sang nhà tù Guy-dan (Nam Mỹ), mẹ bà đã nhảy xuống biển tự tử, nhằm ngày 25-12 năm Canh Tuất (1910).
Còn chuyện này nữa: Anh Cả Trọng có một con chó rất khôn, khi anh bị Pháp giết, nó cứ ngồi ở mộ anh canh chừng, không ăn không uống, một tuần sau chết gục bên mộ chủ…
Bà Hoàng Thị Thế kể chuyện cho chúng tôi nghe suốt buổi sáng hôm đó. Rồi bà còn “đoán” hậu vận cho chúng tôi nữa (sau khi rút khỏi màn bạc, ở Pa-ri ngày ấy bà nổi tiếng về cách bói theo một kiểu riêng, nhiều người, trong đó có các chính khách đã đến nhờ bà xem hậu vận).
Bà qua đời vào mùa hè năm 1992 tại Bệnh viện Hữu Nghị, hưởng thọ 91 tuổi. Thể theo nguyện vọng được yên nghỉ tại nơi cha mẹ và các anh đã ngã xuống, mộ bà được mai táng tại Yên Thế.
PHẠM QUANG ĐẨU

Cụ Đề Thám và các con.
* Trần Hoàng
Kỷ niệm thời thơ ấu [Texte imprimé] / Hoàng Thị Thế
Language:vietnamien, 1975. Nguồn
————————————————————–
Hoàng Cầm, người dịch hồi ký của con gái Đề Thám
15-3-2013
by tvduc
Có khá nhiều điều trùng hợp để hôm nay nói về cuốn sách này: sách nói về người anh hùng Yên Thế hy sinh cách nay tròn 100 năm; người viết ra nó là con gái của người anh hùng ấy; sách được viết đã 50 năm. Tuy thế, khá ít người biết đến cuốn sách này và người dịch nó – nhà thơ Hoàng Cầm…
Điều này trước đây tôi chưa từng biết. Và hình như chính nhà thơ Hoàng Cầm trong sinh thời dường như cũng ít kể với ai về điều này. Người ta chỉ biết, những năm bị “treo bút”, tức là không được công bố sáng tác dưới bút danh chính của mình, từ 1958 đến 1987, Hoàng Cầm đã có lúc dùng bút danh Lê Kỳ Anh. Đó là khi ông đưa in một số thơ ca trên một số sách báo của ngành Văn hóa văn nghệ Hà Nội.
Lần theo bút danh Lê Kỳ Anh trong Thư viện Quốc gia ở Hà Nội, thấy có ít nhất 2 tập thơ văn do Sở Văn hóa Hà Nội in trong năm 1968 có tác phẩm của ông, đó là các tập Lời Bác vang dội núi sông (tập thơ ca kịch, gồm tác phẩm của Huyền Tâm, Việt Dung, Lê Kỳ Anh, Xuân Bình, Dân Huyền, Nguyễn Đỗ Lưu…), và Trận địa bên sông Hồng (tập kịch, gồm các tác phẩm của Xuân Phước, Lê Kỳ Anh, Nguyễn Dậu, Nguyễn Thành, Phùng Thái…). Bên cạnh đó, có một tập hồi ký nhan đề Kỷ niệm thời thơ ấu của bà Hoàng Thị Thế, con gái Đề Thám, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1975, là bản dịch của Lê Kỳ Anh. Lê Kỳ Anh này chắc chắn là bút danh của Hoàng Cầm. Nhưng hãy nói đôi chút về tác giả và cuốn hồi ký.
Bà Hoàng Thị Thế (1901-1988) là con gái thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế Hoàng Hoa Thám (1858-1913). Mẹ bà là Đặng Thị Nhu, tục gọi là bà Ba Cẩn (? – 1910), vợ ba đồng thời là cộng sự của thủ lĩnh Đề Thám. Cuối năm 1909, trong chiến dịch tấn công cuối cùng của quân Pháp vào Yên Thế, bà Ba Cẩn và con gái Hoàng Thị Thế bị quân Pháp bắt. Bà Ba Cẩn cùng trên 70 nghĩa quân bị đem về giam tại Hỏa Lò, Hà Nội, rồi bị kết án đày sang đảo Guyane (Nam Mỹ) thuộc Pháp; trên đường đi, nhân lúc quân canh sơ ý, bà Ba Cẩn nhảy xuống biển tự tử. Cô bé Hoàng Thị Thế được đưa từ Phủ Lạng Thương về Hà Nội; cựu Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer nhận đỡ đầu cho cô Thế sang Pháp ăn học. Năm 1925 cô Thế về Hà Nội làm việc tại Phủ thống sứ Bắc Kỳ; năm 1927 lại được đưa sang Pháp. Cô được mời đóng một số bộ phim nói tiếng Pháp như La Lettre (1930), La Donna Bianca (1930), Le secret de l’ Emeraude (1935) và được xem là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đóng phim. Năm 1930, cô Thế kết hôn với doanh gia chuyên sản xuất rượu vang vùng Bordeaux là Robert Bourge, hai người có chung một con trai là Jean Marie.
Các báo đương thời kể rằng khi Tổng thống Pháp Paul Doumer bị một tay súng Nga lưu vong bắn trọng thương (6/5/1932), cô Thế đang có mặt bên cạnh, đã tự tay lau máu cho vị Tổng thống, ông mất sau đó một ngày do vết thương quá nặng.
Năm 1961, bà Hoàng Thị Thế trở về Việt Nam, sống ở Hà Nội và Bắc Giang. Cuốn hồi ký kể về những kỷ niệm thời thơ ấu đã được bà Thế viết vào chính thời gian này, theo Ty Văn hóa Hà Bắc (1975) thì bà Thế viết hồi ký này ở Hà Bắc vào năm 1963.
Có hai điểm đáng chú ý về cuốn hồi ký. Ấy là việc tác giả viết nó bằng chữ Pháp, và chỉ dồn mọi ký ức vào 3 năm cuối cùng trước khi rời khỏi lãnh địa Yên Thế, như trong lời giới thiệu của Lê Hồng Dương ở đầu sách nói rõ: “…bà quyết định ghi lại bằng chữ Pháp những điều tai nghe mắt thấy, những tình cảm ấm nồng về mẹ cha, anh em và các thân bằng cố hữu của mình từng sống và chiến đấu trên đất Phồn Xương từ năm 1906 đến năm 1909” (sách trên, tr. 13).
Cuộc đời Hoàng Thị Thế 50 năm sau kể từ năm 1909, cuộc đời một cô bé mồ côi, bản thân được nuôi dưỡng bởi chính thế lực đã trừ diệt cha mẹ, lớn lên tại xứ sở xa lạ, được ăn học nên người, hơn thế, còn trở nên nổi tiếng, tức là một cuộc đời thành đạt, quả thật, cuộc đời ấy chứa đựng rất nhiều nghịch lý của những mối quan hệ con người ở tầm liên dân tộc, ở tầm thời đại, thời đại thực dân và hậu thực dân. Nhưng bà Thế đã hầu như không kể về quãng đời 50 năm của bà trên đất Pháp. Bà chỉ tập trung nói về cha mẹ, về cuộc kháng cự cuối cùng của nghĩa quân Yên Thế, về chuyện chính mình bị bắt lúc 8 tuổi khi đang được người chị dâu cõng đi lánh nạn. Khoảng gián cách thời gian khá lớn có lẽ đã khiến bà không còn giữ giọng căm hờn đối với những người Pháp thực dân, nhưng ngay khi dẫn lại lời họ, bà cũng luôn luôn khẳng định họ thừa nhận tinh thần thượng võ, vị tha của Đề Thám, nhắc lại việc Đề Thám nhiều lần tha bổng các quan chức Pháp, trong khi chính những người ấy luôn luôn mưu toan trừ diệt ông.
Kể về những hồi ức của mình thời thơ ấu trên đất Việt, nhưng bà Hoàng Thị Thế lại dùng chữ Pháp, đó có lẽ là vì bà đã sống ở Pháp quá lâu, đến già nửa đời người (từ 1909 đến 1961), có thể nói là bà đã được nuôi dưỡng, lớn lên và sống phần lớn cuộc đời trong văn hóa Pháp ngữ. Những ký ức ở thời bà chưa can dự Pháp ngữ, tuy còn giữ được đến suốt đời, nhưng để kể lại chúng thì bằng tiếng Pháp, đối với bà, lại thuận tiện hơn bằng tiếng Việt.
Theo ghi chú trong sách in Kỷ niệm thời thơ ấu thì nguyên bản của thiên hồi ký này là bản viết tay bằng chữ Pháp, lưu trữ tại Ty Văn hóa Hà Bắc. Bản in năm 1975 của thiên hồi ký này là bản dịch của Lê Kỳ Anh, có sự hiệu đính của Khổng Đức Thiêm. Trong lời giới thiệu, người phụ trách Ty Văn hóa tỉnh không quên “cảm ơn dịch giả Lê Kỳ Anh đã hết lòng làm cho bản dịch tiếng Việt thêm trong sáng”. Như vậy, cuốn sách được in 6.200 cuốn khổ 13×19 cm tại Xí nghiệp in Hà Bắc, in xong trong tháng 10/1975 và nộp lưu chiểu tháng 10/1975 dưới nhan đề Kỷ niệm thời thơ ấu này, chung quy mới chỉ là bản dịch. Người ta chưa biết nguyên dạng chữ Pháp của bản thảo kia ra sao.
Sau những lần tách nhập đia phương, số phận cuốn hồi ký viết tay của con gái Đề Thám không rõ bây giờ ra sao
Điều đáng lưu ý là sau khoảng 30 năm cùng nằm chung trong một tỉnh Hà Bắc (1962-1996), hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang lại tách ra, trở về ranh giới địa lý cũ. Không rõ trong sự bàn giao việc quản lý các hồ sơ di sản, nguyên bản viết tay cuốn hồi ký nói trên của bà Hoàng Thị Thế hiện ở tình trạng thế nào, thuộc cơ quan văn hóa của Bắc Giang hay Bắc Ninh? Liệu những người quản lý có định xuất bản nó dưới dạng nguyên văn chữ Pháp?
Liên quan đến dịch giả Hoàng Cầm, từng đứng tên Lê Kỳ Anh trong bản dịch in năm 1975 kể trên, tôi nghĩ có lẽ ông đã làm công việc dịch thuật một cách có trách nhiệm, thậm chí đã gửi không ít xúc cảm vào bản dịch ấy. Tuy vậy, nếu được biết nguyên bản cuốn sách, các giới nghiên cứu và dịch thuật mới có thể đánh giá thực sự về lao động của ông hồi ấy. Đó là chưa nói, bản thảo ấy cũng có thể được dịch mới bởi một dịch giả khác
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân
Theo TTVHCT
————————————————————
CHÚC TẾT GIA ĐÌNH CÁC TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM
Trò chuyện với GS Phạm Minh Hoàng
Người Việt Yêu Nước
Ngày 3-2-2014
Sáng nay tôi ăn diện rõ đẹp để đến gặp mặt đầu năm với các anh em. Đến nơi thấy mọi người đã dùng xong bữa sáng và nhấp nhổm đi, tôi hỏi: các bác đi đâu đấy? Nhà thơ Hoàng Hưng nói: Chúng tớ định đi chúc têt các gia đình Tù Nhân Lương Tâm. Mình đòi theo ngay.
Nhà thơ Hoàng Hưng đi trước, tôi và nhà báo Kha Lương Ngãi, kỹ sư Tô Lê Sơn lục tục đi sau. Khi đến nơi thì đoàn gồm: Nhà thơ Hoàng Hưng, nhà báo Kha Lương Ngãi, nhà báo Phạm Chí Dũng (suýt thành Tù Nhân Lương Tâm), kỹ sư Tô Lê Sơn, Nguyễn Công Khanh, Hoàng Dũng CDVN và tôi.
Nhà đầu tiên chúng tôi đến thăm là gia đình của nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình, anh đang bị kết án tù 6 năm cùng với nhạc sĩ Việt Khang. Mẹ của Bình bị gãy tay trước tết , tay vẫn phải băng bó. Lúc sau anh trai của Bình cũng về. Hoàng Dũng CDVN thay mặt tặng quà. Chúng tôi hỏi thăm tình hình sức khỏe của Bình, của Việt Khang và nói với gia đình rằng khi nào có dịp đi thăm anh ấy thì cho chúng tôi thay mặt nhiều người (không đến được hôm nay) gửi lời chúc sức khỏe và bình an đến nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình.
Nhà thơ Hoàng Hưng và mẹ của TNLT Trần Vũ Anh Bình
Trong chương trình sẽ ghé thăm nhà của anh Trần Huỳnh Duy Thức, nhưng Hoàng Dũng cho biết: sáng nay gia đình đi thăm anh Thức trong tù nên không ai có nhà.
Nhà thứ 2 là gia đình của Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, đang bị kết án 9 năm cùng với Đỗ thị Minh Hạnh vì đấu tranh cho quyền lợi của công nhân; Hùng đã ngồi tù 2 năm và còn chịu án 7 năm nữa. Chúng tôi gặp ba của Quốc Hùng. Sau khi chúc tết và thăm hỏi, chúng tôi hỏi ba của Hùng rằng: hàng xóm họ đối xử với gia đình bác như thế nào. Ba của Hùng cho biết: Nhưng người nào họ lên mạng, họ biết thì họ thăm hỏi. Còn những người không biết, nhưng với những lời bôi nhọ của chính quyền rằng Hùng là “phản động” thì họ chẳng tin hoặc không quan tâm, nên họ vẫn đối xử bình thường. Chúng tôi nghe vậy mừng lắm.
Các nhà báo NKH, Phạm Chí Dũng, Hoàng Hưng, Kha Lương Ngãi, ba của Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Hoàng Dũng, Phạm Công Thanh, Tô Lê Sơn.
Hoàng Dũng CDVN thay mặt tặng quà gia đình Nguyễn Hoàng Quốc Hùng
Thăm gặp mẹ GS Phạm Minh Hoàng
GS Phạm Minh Hoàng vui mừng bắt tay nhà báo Kha Lương Ngãi
Nhà cuối cùng chúng tôi đến là Giáo sư Phạm Minh Hoàng. Lúc đến nơi thì có thêm nhà báo tự do Phạm Bá Hải (cựu Tù Nhân Lương Tâm, may quá anh vừa hết hạn quản chế) đã đến trước đó 15 phút. Nhưng Gs Hoàng đã đi vắng, sau khi nghe Hải gọi điện thoại báo tin có chúng tôi đến thăm, Gs Hoàng nói sẽ về nhà liền.
Chúng tôi ngồi thăm hỏi má của giáo sư Phạm Minh Hoàng. Một lúc sau giáo sư về, anh thật sự vui mừng vì chuyến thăm bất ngờ này của chúng tôi. Anh kể chuyện như chưa từng được nói. Và nhìn gia cảnh của giáo sư 30 năm ở Pháp về thật quá “khiêm tốn” làm tôi chạnh lòng, anh chỉ có một mong ước đóng góp sức mình để đất nước đổi thay, nhưng kết cục là tù tội.
Anh cười kể: Khi kết án, họ kết tội anh là gia nhập đảng Việt Tân và tuyên truyền chống phá nhà nước. Nhưng chẳng có một bằng chứng gì là anh làm những việc chống phá. Một CA nói với anh: Anh vào đảng này, dù anh chỉ ngồi nhà đọc kinh thôi chẳng làm gì thì cũng bị bắt.
Khi chúng tôi chào về, giáo sư tiếc nuối không muốn chia tay. Nhà báo Phạm Chí Dũng và Phạm Bá Hải thấy vậy đã rủ nhau ở lại trò chuyện với giáo sư thêm một lúc nữa.
Nhà báo Phạm Chí Dũng, Kha Lương Ngãi, Hoàng Hưng, và NCK
Lúc ở nhà những gia đình những Tù Nhân Lương Tâm, tôi vui vẻ chúc tết cùng anh em. Nhưng khi viết những dòng chữ này thì tôi lại ngấn nước mắt.
Điều chúng tôi muốn nhắn gửi đến các Tù Nhân Lương Tâm còn ở trong tù rằng: Ở ngoài này vẫn còn có rất nhiều người sát cánh, ủng hộ các bạn và gia đình, vì thế các bạn hãy cứ giữ vững lòng tin và kiên cường. Nhà nước có thể bắt một vài chục người, hay vài trăm người, thậm chí cả triệu người yêu nước, nhưng họ không thể bỏ tù toàn thể Nhân dân Việt nam – và buộc cả Dân Tộc Việt Nam im tiếng nói.
NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC
Nguồn: Blog Huỳnh Ngọc Chênh